Đặc sắc truyện ngắn Nam Cao qua tác phẩm Chí Phèo (Trương Văn Quỳnh)

Đặc sắc truyện ngắn Nam Cao qua tác phẩm Chí Phèo (Trương Văn Quỳnh)

Trường THPT Chuyên Lào
Cai

Tổ
Ngữ văn

Chuyên
đề:

Đặc sắc truyện ngắn Nam
Cao qua tác phẩm Chí Phèo

PHẦN
MỞ ĐẦU

I.
Lí do chọn đề tài:

Văn
học là loại hình nghệ thuật đặc thù, quan tâm và thể hiện đời sống con người ở
nhiều góc độ, nhiều phương diện. Nói cách khác văn học là nhân học, là những
câu chuyện về cuộc đời, về những con người cụ thể. Ở mỗi thời kì, mỗi giai đoạn
văn học khác nhau, số phận con người cũng được quan tâm khác nhau, như văn học
thời kì trung đại quan tâm đến con người xã hội, con người cộng đồng. Trong khi
đó văn học hiện đại chuyển xu hướng đó qua từng cá nhân cụ thể. Văn học Việt
Nam hiện đại, tiêu biểu là xu hướng văn học hiện thực phê phán, quan tâm, khám
phá sâu sắc đời sống vật chất và đời sống tinh thần của từng cá nhân cụ thể, đi
sâu vào khám phá thế giới nội tâm bí ẩn của từng số phận con người. Trong đó,
nhà văn Nam Cao – một hiện tượng văn học đặc biệt, ông không chỉ thể hiện nỗi
đau của con người trong xã hội hiện tại, ông còn bộc lộ nỗi đau của mình trước
sự tha hóa của con người. Nam Cao luôn băn khoăn, trăn trở tìm kiếm lối thoát
cho những số phận luôn bị dằn vặt bởi cái nghèo, cái đói. Họ bị biến đổi cả hình
hài lẫn nhân tính cũng bởi những lo toan cơm, áo, gạo tiền và cả ý nghĩa cuộc sống.
Những bi kịch luôn xảy ra với các tầng lớp trong đời sống xã hội từ người nông
dân đến người trí thức. Những trang viết của Nam Cao đã thu hút rất nhiều sự
chú ý của giới nghiên cứu văn học. Họ nghiên cứu về đời sống nhà văn, về nội
dung sáng tác, về tư tưởng, phong cách và về bút pháp nghệ thuật. Vì thế, chuyên
đề này mong muốn được khám phá thêm nét độc đáo trong truyện ngắn của Nam Cao từ
đó giúp học sinh nắm được những nét riêng, độc đáo trong sáng tác cũng như
phong cách của nhà văn.

II.
Đối tượng nghiên cứu

“Chí
Phèo” thật sự là một kiệt tác, thể hiện đầy đủ nhất tài năng nghệ thuật xuất sắc,
độc đáo của nhà văn Nam Cao. Tác phẩm thể hiện rõ nhất đặc sắc nghệ thuật truyện
ngắn của tác giả.

Chuyên
đề: Đặc
sắc truyện ngắn Nam Cao qua tác phẩm Chí Phèo
tập trung nghiên cứu tác
phẩm Chí Phèo từ đó chỉ ra những nét đặc sắc trong sáng tác truyện ngắn của Nam
cao

III.
Mục đích nghiên cứu:

– Tìm hiểu chuyên sâu
kiến thức về một tác gia, tác phẩm cụ thể nhằm phục vụ cho quá trình hoàn thiện
kiến thức ôn luyện học sinh giỏi.

– Xây dựng hệ thống kiến
thức về đắc sắc truyện ngắn của một tác gia văn học.

PHẦN
NỘI DUNG

Chương
I: Khái quát về vị trí của Nam Cao và một số nét đặc sắc trong truyện ngắn của
ông

I.
Vị trí của Nam Cao trong nền văn học
dân tộc

Nam
Cao là một trong số những nhà văn hiện thực lớn nhất của nền văn học Việt Nam.
Ông thuộc trong số những cây bút hiếm hoi của nền văn xuôi hiện đại có tư tưởng,
phong cách và thi pháp sáng tạo riêng độc đáo, có những cách tân lớn lao góp phần
quan trọng vào tiến trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc. Sự nghiệp sáng tác
của Nam Cao không dài, chỉ gói trọn trong 15 năm (1936 – 1951), gia tài văn
chương Nam Cao để lại cho hậu thế không mấy đồ sộ song chúng đã thành “mẫu số
vĩnh hằng” trong nền văn học dân tộc. Sáng tác của ông đã vượt qua được những
thử thách khắc nghiệt của thời gian, có sức sống mạnh mẽ trong lòng người đọc.
Thời gian càng lùi xa, những tác phẩm của ông càng bộc lộ những tư tưởng nhân
văn cao đẹp, ý nghĩa hiện thực sâu sắc và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện, độc
đáo. Đúng như nhà nghiên cứu Phong Lê đã nhận xét: “Sáng tác của Nam Cao là cả một kho trữ lượng bên
trong, một kho của dư đầy…có thể đào xới vào rất nhiều tầng vỉa, và vẫn còn hứa
hẹn nhiều vỉa mới”.

Nam Cao xuất hiện
trên văn đàn từ 1936 bằng một số bài thơ, truyện ngắn chịu nhiều ảnh hưởng của
văn học lãng mạn đương thời nhưng không mấy thành công và ít được chú ý. Chỉ đến
1940, khi viết truyện ngắn “Chí
Phèo” Nam
Cao mới thực sự xác định được hướng đi cho ngòi bút của mình. Và với khuynh hướng
hiện thực chủ nghĩa tên tuổi và vị trí của Nam Cao mới thực sự được khẳng định.
So với các nhà văn hiện thực phê phán như Nguyễn công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ trọng
Phụng, Nam Cao là người đến muộn song với tài năng và sự nỗ lực của mình ông đã
trở thành đại diện ưu tú nhất cho trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930 –
1945 với quan điểm nghệ thuật phải gắn liền với hiện thực, phải “vị nhân sinh”.
Sáng tác của Nam Cao tập trung vào hai đề tài: người nông dân và người trí thức
nghèo trước cách mạng tháng tám. Ở đề tài người nông dân Nam Cao đã dựng lên bức
tranh chân thực về nông thôn Việt Nam trên con đường phá sản, bần cùng, không lối
thoát, hết sức thê thảm vào những năm trước cách mạng. Và nổi lên trong bức
tranh ấy là hình tượng những người nông dân hiền lành, lương thiện bị đẩy vào
tình trạng tha hóa, lưu manh hóa, bị hủy hoại cả nhân hình và nhân tính (Chí Phèo,Tư Cách Mõ, Một bữa no, Trẻ con không được
ăn thịt chó…). Những sáng tác về đề tài người
trí thức của ông tập trung thể hiện những tấn bi kịch tinh thần của người trí
thức tiểu tư sản có hoài bão, khát vọng, giàu tài năng nhưng lại bị gánh nặng
áo cơn ghì sát đất, trở thành những mảnh “đời thừa”, những kiếp “sống mòn”. Nam
Cao không chỉ dừng lại ở việc phản ánh tình trạng thê thảm của xã hội và con
người trước cách mạng mà còn trực tiếp phân tích, cắt nghĩa, truy tìm nguyên
nhân dẫn tới tình trạng đó. Dù ở đề tài người nông dân hay người trí thức Nam
Cao đều bộc lộ sự cảm thông, thương xót trước những đau khổ, bất hạnh của con
người. Tác phẩm của ông là lời kết án đanh thép xã hội thực dân nửa phong kiến
bất công chà đạp nhân phẩm của con người, đồng thời là tiếng kêu khẩn thiết:
hãy cứu lấy nhân phẩm con người.

          Về phương diện nghệ thuật Nam Cao đã
đánh dấu sự cách tân ở nhiều mặt: kết cấu, nghệ thuật trần thuật, ngôn ngữ, nghệ
thuật xây dựng nhân vật…góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy và hoàn thiện quá
trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc.

II. Một số nét đặc sắc trong truyện ngắn của Nam Cao

1. Đề tài, chủ đề

Nam Cao thường hướng ngòi
bút của mình vào miêu tả những cái nhỏ nhặt, xoàng xĩnh cuộc sống hàng ngày, từ
đó đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn, những triết lý sâu sắc về con
người, cuộc sống, nghệ thuật. Sáng tác của Nam Cao trước cách mạng tập trung
vào hai đề tài: đề tài người nông dân và đề tài người trí thức, những đề tài
quen thuộc của văn học hiện thực phê phán. Tuy nhiên do biết đào sâu, biết tìm
tòi nên tác phẩm của Nam Cao vẫn có khả năng khám phá hiện thực ở một chiều sâu
mới, đặt ra những vấn đề hết sức mới mẻ. Qua những sáng tác về đề tài người
nông dân Nam Cao đã dựng lên bức tranh chân thực về nông thôn Việt Nam nghèo
đói , xơ xác, đầy những xung đột, mâu thuẫn, trong đó cuộc sống của người nông
dân hiện lên hết sức bi thảm. Trong những tác phẩm của mình Nam Cao đã phản ánh
chân thực, sâu sắc tình trạng khốn cùng của người nông dân Việt Nam trên con đường bần cùng
hóa, phá sản, không lối thoát vào những năm 1940 – 1945.

Nếu
như Nguyễn Công Hoan đã xây dựng khá thành công hình ảnh người nông dân điêu đứng,
phá sản vì thủ đoạn tranh cướp ruộng đất của bọn địa chủ cường hào trong tiểu
thuyết “Bước đường cùng”, Ngô Tất Tố với
tiểu thuyết “Tắt đèn” nói lên số phận
long đong, khốn khổ của những người nông dân Việt Nam trước cảnh sưu cao thuế nặng
thì Nam Cao lại viết về số phận bi thảm, cùng cực của người nông dân qua cuộc sống
hàng ngày của họ. Đó là những con người sống quẩn quanh, bế tắc trong cái đói,
cái nghèo. Biết bao người chết vì đói, vì ốm đau không có tiền thuốc thang. Anh
đĩ Chuột trong truyện ngắn “Nghèo”
buộc
phải thắt cổ tự tử để đỡ gánh nặng cho vợ con: “Cái bộ xương bọc trong da giãy giụa như một con gà bị
bẫy, sau cùng, nó chỉ còn giật từng cái chậm dưới sợi dây thừng lủng lẳng”. Lang Rận
trong truyện ngắn cùng tên vất vưởng sống trong rách rưới đói nghèo, tủi nhục
vì bị người ta khinh bỉ, làm nhục đã phải tìm đến cái chết một cách thê thảm
thê thảm: “Ông thắt cổ bằng cái ruột tượng
gốc của mụ Lợi. Cái mặt ông đọng máu sưng lên bằng cái thớt. Cái đầu ông nghẹo xuống như đầu
một thằng bé khi nó dỗi trông thật là thiểu não”. Cuộc đời lão
Hạc trong truyện ngắn cùng tên cũng là một chuỗi ngày dài đầy bất hạnh. Không đủ
tiền cưới vợ cho con đến nỗi nó phẫn chí bỏ đi làm đồn điền cao su, lão Hạc phải
sống mòn mỏi trong cô đơn, nghèo đói. Lão làm thuê, làm mướn để kiếm ăn qua
ngày chứ nhất định không tiêu vào tài sản của con. Thế rồi ốm đau không còn sức
để đi làm thuê nữa Lão Hạc đành phải tự kết liễu đời mình bằng một cái chết thật
thảm khốc: “Lão tru tréo, bọt mép sùi
ra, khắp người chốc chốc lại giật mạnh một cái, nẩy lên. Hai người đàn ông lực
lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ mới chết. Cái chết
thật là dữ dội”. Có thể nói qua những số phận
bất hạnh, những cái chết thê thảm ấy Nam Cao đã phản ánh cuộc sống ngột ngạt, bế
tắc, không lối thoát của những người nông dân Việt Nam trước cách mạng.

Viết về người nông dân, Nam Cao đặc biệt quan tâm đến vấn
đề miếng ăn, vấn đề cái đói – điều mà nhiều cây bút hiện thực đã chú ý phản
ánh. Song nếu như Ngô Tất Tố viết về cái đói là tiếng kêu khẩn thiết, cấp bách
cứu đói cho người ông dân (Mớ rau trong hòm, Làm no, Cái ăn trong những ngày nước ngập) thì Nam Cao viết về cái đói, miếng ăn như một nỗi nhục
nhã, ê chề làm hủy hoại cả nhân phẩm và nhân tính của con người. Ông nhấn mạnh nỗi
nhục hơn là nỗi khổ. Như nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét: “Nếu như
ở tác phẩm của Ngô Tất Tố là tiếng kêu cứu đói, thì ở tác phẩm của Nam Cao lại
là tiếng kêu cứu lấy nhân cách, nhân phẩm, nhân tính của con người đang bị cái
đói và miếng ăn làm cho tiêu mòn đi, thui chột đi, hủy diệt đi”. Bà
cái Tý trong “Một bữa no” vì quá đói mà đành phải từ bỏ cả danh dự, lòng
tự trọng và nhân cách của con người để mong kiếm một bữa no. Trong “Tư cách
mõ”, miếng ăn cùng với sự xúc phạm của những người xung quanh đã biến anh
cu Lộ từ một người nông dân thật thà thành một kẻ đê tiện, tham lam. Như vậy
qua những câu chuyện nhỏ nhặt, tầm thường, xoay quanh chuyện cái đói, miếng ăn
Nam Cao đã phản ánh chân thực cuộc sống khốn khổ, bần cùng ở nông thôn Việt Nam
trước cách mạng, cảm thông, thương xót trước nỗi cơ cực của những người nông
dân đồng thời đặt ra những vấn đề mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Đó là lời kêu
khẩn thiết hãy cứu lấy nhân phẩm con người.

Viết về
người nông dân Nam Cao tập trung viết về tình trạng những con người hiền lành,
lương thiện luôn bị lăng nhục, bị xúc phạm về nhân phẩm, bị đẩy vào tình trạng
tha hóa, lưu manh hóa. Lộ trong “Tư cách mõ” vốn là người hiền lành, thật
thà, chăm chỉ làm ăn, vậy mà chỉ vì sự nhục mạ, khinh ghét của những người xung
quanh mà trở nên trơ trẽn, đê tiện, không còn biết xấu hổ, nhục nhã là gì.

Đề tài người trí thức tiểu tư sản khá quen thuộc đối với
văn học Việt Nam 1930 – 1945 nhưng chỉ đến Nam Cao, với ngòi bút hiện thực tỉnh
táo, nghiêm ngặt, với sự phân tích tâm lý sắc sảo, hình ảnh những nhân vật trí
thức tiểu tư sản mới hiện lên thật cụ thể và sinh động qua những tấn bi kịch
tinhthần dai dẳng, bế tắc. Viết về người trí thức tiểu tư sản Nam Cao đã tập
trung xoáy sâu làm nổi bật tấn bi kịch tinh thần của họ. Đó là bi kịch của những
trí thức nghèo có tài năng, hoài bão, khát vọng lớn lao nhưng bị hiện thực đói
nghèo gánh nặng áo cơm ghì sát đất, không thực hiện được ước mơ của mình, luôn
dằn vặt, đau đớn về tinh thần như Hộ trong “Đời thừa”, Thứ trong “Sống mòn”, Điền trong “Giăng
sáng”. Có thể nói những tác phẩm viết về đề tài người trí thức
của Nam Cao đã thực sự trở thành tiếng khóc xót xa, ân hận về “cái chết của tâm
hồn”, cái chết về tinh thần của cả một lớp người trong xã hội cũ, qua đó thể hiện
tình trạng bế tắc, không lối thoát của những người trí thức tiểu tư sản, đồng
thời phản ánh sâu sắc bầu không khí ngột ngạt của một xã hội đanh han rỉ và kiệt
quệ về tinh thần, đang bị đe dọa nghiêm trọng trước thảm họa của đói rét và chiến
tranh. Dù viết về đề tài người nông dân hay trí thức tiểu tư sản Nam Cao đều dựng
lên bức tranh chân thực về xã hội Việt Nam trước cách mạng, đồng cảm, thương
xót với những đau khổ, bất hạnh của con người. Đồng thời khẳng định phẩm chất của
con người dù bị hoàn cảnh chà đạp, vùi dập. Đó chính là chủ nghĩa nhân đạo cao
cả bao trùm sáng tác của ông. Như Nguyễn Văn Hạnh khẳng định trong bài Nam Cao
và khát vọng về một cuộc sống lương thiện,xứng đáng (in trong Nam Cao về tác gia và tác phẩm): “Chủ nghĩa nhân đạo của Nam cao
không chỉ thể hiện ở lòng cảm thông, xót thương cho những người nghèo khổ, bất
hạnh trong xã hội mà còn ở những trăn trở, dằn vặt không nguôi trước cuộc sống
vô nghĩa, bế tắc, một chủ nghĩa nhân đạo bao giờ cũng đặt con người ở trung tâm
cuộc sống, buồn cho con người mà vẫn tin ở con người, tin ở bản tính lành mạnh
tốt đẹp của con người, nó đòi hỏi con người không được thụ động, buông xuôi, mà
phải tích cực, chủ động, có ý thức trách nhiệm về cuộc sống của mình”.

2. Cốt truyện, kết cấu

Trong
văn học truyền thống cốt truyện là vấn đề quan tâm hàng đầu của nhà văn bởi vì
nó là yếu tố hàng đầu tạo nên sự hấp dẫn của tác phẩm. Các nhà văn cùng thời với Nam Cao vẫn hết sức coi trọng cốt truyện. Họ đều có
ý thức xây dựng một cốt truyện với những tình tiết hấp dẫn, nhiều sự kiện, biến
cố bất ngờ, tạo nên tính chất giàu kịch tính cho tác phẩm. Cốt truyện của “Tắt
đèn” dồn dập những sự kiện, biến cố, rất căng thẳng và giàu kịch
tính. Trong tác phẩm của Nam Cao cốt truyện có vai trò khiêm tốn hơn, ông không
coi đó là yếu tố hàng đầu tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm. Trong nhiều tác phẩm
của ông cốt truyện được hư cấu rất đơn giản, dường như không cần đến sự tổ chức,
sắp xếp. Có
nhiều truyện của Nam Cao không có cốt truyện.

Nếu
như trong truyện của Nguyễn Công Hoan, Vũ trọng Phụng cốt truyện thường được
xây dựng trên cơ sở miêu tả những hành động bên ngoài của nhân vật vào những thời
điểm quan trọng, có tính chất bước ngoặt làm thay đổi cuộc đời, số phận nhân vật.
Cuộc sống được miêu tả là những chuỗi biến cố, sự kiện, những tình huống ngẫu
nhiên, đầy bất ngờ làm đảo lộn tất cả thì Nam Cao thường xây dựng cốt truyện
trên cơ sở miêu tả những cuộc đấu tranh nội tâm của nhân vật. Trong Giăng sáng, Đời thừa, Mua nhà, Nước mắt, Sống mòn…những sự kiện
xuất hiện thường là nguyên nhân, là nguồn gốc của những cảm xúc, tâm trạng, suy
nghĩ của nhân vật. Nhân vật bộc lộ thái độ, tư tưởng, tình cảm của mình chủ yếu
là qua hành vi (cử chỉ, nét mặt, lời nói) và qua lời độc thoại nội tâm chứ
chúng không có những hành động dứt khoát để làm nên những thay đổi bên ngoài. Sự
vận động của hành động không phải diễn ra ở bên ngoài mà chủ yếu chỉ xảy ra ở
bên trong, xảy ra trong thế giới nội tâm của nhân vật.

Ý
thức được vai trò của người nghệ sĩ Nam Cao không chấp nhận tác phẩm của mình
chỉ phản ánh được cái bề ngoài của xã hội, bề ngoài của hiện thực. Ông muốn thể
hiện cuộc sống tự nhiên, chân thật, khách quan như nó vốn có với những cái hàng
ngày bình thường, xoàng xĩnh, với tất cả những gì gần gũi, quen thuộc nên cốt
truyện của ông thường được nới lỏng, được giãn ra chứ không chặt chẽ, tập trung
như trong cốt truyện truyền thống. Giăng
sáng, Đời thừa, Một đám cưới…đều có khuynh hướng nới lỏng cốt truyện
để cho những chi tiết, những cái vặt vãnh hàng ngày ùa vào tác phẩm. Tiểu thuyết
Sống mòn từ đầu tới cuối
chỉ viết về cuộc đời riêng tư của vài nhân vật với những cái vặt vãnh hằng ngày
đang diễn ra xung quanh cuộc sống của nhân vật Thứ. Mãi đến cuối tác phẩm mới
có một biến cố thực sự thấp thoáng xuất hiện – chiến tranh thế giới thứ hai với
những hồi còi báo động liên miên, những người dân thành phố lục tục chạy loạn,
trường học bị đóng cửa…làm lay động những cuộc đời đang mòn mỏi bế tắc. Nhưng
biến cố ấy vừa mới xuất hiện thì cuốn tiểu thuyết lại khép lại. Có thể nói đẩy
cốt truyện xuống bình diện sau, xây dựng những cốt truyện chủ yếu được hình
thành từ những

hành động bên
trong của nhân vật là một sự cách tân của Nam Cao, góp phần phát triển nền văn
xuôi hiện đại Việt Nam.       Trong sáng
tác của Nam Cao ta không chỉ gặp một kểu kết cấu mà thường thấy xuất hiện nhiều
kiểu kết cấu. Đối với ông kết cấu là con đường và phương tiện làm sâu sắc hơn
tư tưởng của tác phẩm vì vậy ông đã tổ chức những kiểu kết cấu hợp lý, phóng
túng mà chặt chẽ, tạo dựng những tình huống, xếp đặt các sự kiện, tổ chức hệ thống
tính cách hợp lý, biến chúng trở thành những phương tiện để thể hiện tư tưởng của
tác phẩm.

          Trong nhiều truyện Nam Cao sử dụng kiểu
kết cấu đi thẳng vào vấn đề trung tâm của tác phẩm (Chí Phèo, Tư cách mõ, Từ ngày mẹ chết…) Ngay từ những
dòng đầu tiên của tác phẩm đã nói tới chi tiết, sự kiện thể hiện bản chất, vấn
đề cốt lõi của câu chuyện và sau đó nhà văn mới quay lại phía sau, miêu tả
quãng đời quá khứ của nhân vật. Mở đầu truyện Tư
cách mõ Nam
Cao nói thẳng vào vấn đề anh cu Lộ đã trở thành một thằng mõ điển hình, một thằng
mõ chính tông rồi sau đó mới quay lại lý giải nguyên nhân khiến cho Lộ bị tha
hóa: “Bây giờ thì hắn đã thành mõ
hẳn rồi. Một thằng mõ đủ tư cách mõ chẳng chịu kém những anh mõ chính tông một
tý gì: cũng đê tiện, cũng lầy là, cũng tham ăn…”.

          Một số
truyện của Nam Cao có kiểu kết cấu theo trình tự thời gian như “Nghèo”,
“Ở hiền”, “Dì Hảo”…. Các sự kiện diễn ra
trong cuộc đời của nhân vật đều được sắp xếp theo trật tự thời gian nhờ vậy mà
người đọc dễ theo dõi sự phát triển số phận của nhân vật, đồng thời tạo ấn tượng
sâu đậm theo dòng thời gian ấy cuộc sống của nhân vật càng chìm sâu hơn trong
khổ đau, tủi cực.

          Trong truyện
của Nam Cao ta còn thấy xuất hiện kiểu kết cấu lắp ghép. Đây là kiểu kết cấu phổ
biến trong điện ảnh. Sử dụng kiểu kết cấu này Nam Cao thường sắp xếp, tổ chức lại
thời gian, tạo nên sự luân phiên giữa các cảnh với nhau. Những sự sắp xếp này
làm cho những cảnh đời, những bức tranh hiện thực của đời sống lần lượt hiện
ra. Truyện ngắn “Chí Phèo”, tiểu thuyết “Sống
mòn” thuộc kiểu kết cấu như thế. Những cảnh đời, những mảng hiện
thực khác nhau, mới thoáng nhìn tưởng chẳng có liên hệ gì với nhau được tác giả
sắp xếp, lắp ghép vào tác phẩm, cứ lần lượt xuất hiện như những cảnh trong
phim, cùng tập trung thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm, qua đó nhà văn phản
ánh được tính chất phong phú, phức tạp của cuộc sống.

          Hướng ngòi
bút vào việc miêu tả thế giới tinh thần bên trong của nhân vật, Nam Cao thường
xuyên lựa chọn kiểu kết cấu tâm lý. Có thể coi đây là kiểu kết cấu đặc trưng,
cơ bản nhất trong tác phẩm của Nam Cao, đặc biệt là những sáng tác về chủ đề tiểu
tư sản. Những truyện ngắn “Đời thừa”, “Giăng sáng”,
“Nước mắt”, “Lão Hạc”, “Chí Phèo” và tiểu thuyết
“Sống
mòn” là những mẫu mực về kiểu kết cấu này.

          Trên đây
là những kiểu kết cấu thường gặp trong sáng tác của Nam Cao, tuy nhiên trong một
tác phẩm ông không chỉ sử dụng đơn thuần một kiểu kết cấu nào, mà thường kết hợp
linh hoạt nhiều kiểu kết cấu phối hợp với nhau tạo nên một hệ thống hoàn chỉnh,
trong đó có một kiểu kết cấu chính giữ vai trò chủ đạo. Có thể xem “Sống
mòn” và “Chí phèo” là những tác
phẩm tiêu biểu hơn cả cho cách tổ chức kết cấu như thế. Nếu nhìn bề ngoài ta thấy“Sống
mòn” là sự nối kết của những câu chuyện tản mạn, rời rạc về những
điều nhỏ nhặt, tầm thường trong cuộc sống tưởng như chẳng liên quan gì đến nhau
nhưng nếu đọc kĩ thì lại thấy kết cấu của truyện hết sức chặt chẽ, lôgic. Từ những
câu chuyện vặt vãnh hằng ngày diễn ra xung quanh nhân vật Nam Cao đã nói lên cuộc
sống tù túng, quẩn quanh, không

lối thoát của người trí thức trước cách mạng, đồng thời
thể hiện bi kịch tinh thần của người trí thức có ước mơ, hoài bão nhưng bị hiện
thực xã hội chà đạp, đè nén dẫn đến tình trạng chết mòn về tinh thần, không có
lối thoát. Đọc truyện “Chí Phèo” ta thấy xuất hiện
nhiều kiểu kết cấu: kết cấu đi thẳng vào vấn đề trung tâm, kết cấu vòng tròn, kết
cấu lắp ghép…góp phần tạo nên tính hấp dẫn của tác phẩm.

          Tóm lại,
sáng tác của Nam Cao thể hiện sự cách tân quan trọng trong nghệ thuật tổ chức kết
cấu. Với mong muốn khám phá cuộc sống ở bề sâu ý nghĩa tư tưởng của nó ông thường
cố gắng kết hợp nhiều kiểu kết cấu trong một tác phẩm để tạo cho tác phẩm nhiều
lớp ý nghĩa. Chính điều này góp phần tạo nên sức hấp dẫn trong tác phẩm của Nam
Cao.

3. Nghệ thuật miêu tả và phân
tích tâm lý nhân vật

Sáng
tác của Nam Cao giàu sức khám phá sáng tạo. Với phong cách nghệ thuật độc đáo
Nam Cao đã thể hiện tài năng bậc thầy trong việc thể hiện tâm lý nhân vật. Hướng
ngòi bút vào thế giới bên trong của con người, miêu tả tâm lý trong chiều sâu của
sự vận động và phát triển của nhân vật là đóng góp nổi bật của Nam Cao về
phương diện nghệ thuật.

     Đầu thế kỉ XX sự xuất
hiện của con người cá nhân, ý thức cá nhân đòi hỏi văn học phải tập trung khám
phá thế giới nội tâm sâu kín của con người. Tuy nhiên, mỗi nhà văn lại đáp ứng
yêu cầu đó bằng cách riêng của mình và ở những mức độ khác nhau. Trong số đó
Nam Cao là nhà văn đáp ứng xuất sắc nhất yêu cầu này của văn học. Điều đó xuất
phát từ quan điểm nghệ thuật về con người của Nam Cao. Ông quan niệm: “Sống tức
là cảm giác và tư tưởng. Sống cũng là hành động nữa, nhưng hành động chỉ là phần
phụ: có cảm giác, có tư tưởng mới sinh ra hành động. Bản tính cốt yếu của sự sống
chính là cảm giác và tư tưởng. Cảm giác càng mạnh, càng linh diệu, tư tưởng
càng dồi dào càng sâu sắc thì sự sống càng cao”. Ông luôn đề cao con người tư tưởng, đặc biệt chú ý tới hoạt động bên
trong của con người, coi đó là nguyên nhân của những hành động bên ngoài. Đối với
Nam Cao, cái quan trọng nhất trong tác phẩm không phải là bản thân sự kiện, biến
cố mà là con người trước sự kiện, biến cố. Cho nên ông thường tập trung miêu tả,
phân tích đời sống tinh thần bên trong của nhân vật hơn là miêu tả những sự việc,
biến cố bên ngoài của sự sống. Trong hầu hết các sáng tác của Nam Cao các sự kiện,
biến cố nói chung đều được miêu tả trong sự ảnh hưởng của chúng tới tâm hồn nhân
vật. Ông lấy thế giới nội tâm nhân vật làm đối tượng chính của sự miêu tả. Hướng
ngòi bút của mình vào việc khám phá con người trong con người,miêu tả và phân
tích mọi biểu hiện, mọi chuyển biến trong thế giới tâm hồn của nhân vật. Trong“Đời thừa”
nhà văn không hướng ngòi bút vào miêu tả nỗi khổ cơm áo
mà tập trung thể hiện nỗi đau đớn, dằn vặt tinh thần của nhân vật trước gánh nặng
áo cơm làm mai một tài năng và xói mòn nhân cách. Nam Cao đã đi sâu vào diễn tả
nỗi băn khoăn, day dứt, dằn vặt, ân hận của Lão Hạc khi buộc phải bán con chó để
làm nổi bật phẩm chất lương thiện của lão.

          Nam cao đã
sử dụng nhiều thủ pháp, nhiều phương tiện để miêu tả tâmlý nhân vật, tạo nên một
chủ nghĩa tâm lý trong sáng tác của ông. Nam Cao thường sử dụng thiên nhiên làm
phương tiện để thể hiện trạng thái tâm lý của nhân vật. Cảnh vật thiên nhiên
qua ngòi bút của ông khi thì hiện lên trong sắc thái tương phản, lúc lại hòa hợp
với tâm trạng nhằm khắc họa rõ nét tâm trạng của nhân vật. Cảnh thiên nhiên rộn
rã những âm thanh, “ không gian là một đám hội xôn xao và rực rỡ” càng là nổi bật tâm trạng cô đơn, chua chát của Phúc (Điếu
văn) khi ốm đau mà vẫn bị vợ bỏ rơi, không chút đoái hoài..
Đọc “Sống
mòn” người đọc bị ám ảnh mãi bởi cái nắng chiều úa vàng được
lọc qua tâm hồn đang chết mòn của Thứ: “Ở bên ngoài nắng nhạt dần. Nắng úa vàng. Sức nắng giảm rất mau. Thứ tưởng như
trông thấy thời gian trôi và ngày chết dần đi”. Như vậy những cảnh vật thiên
nhiên trong truyện của Nam Cao thường gắn liền vớitâm trạng của nhân vật. Nó là
phương tiện quan trọng góp phần khắc sâu tâm trạng của nhân vật, qua đó thể hiện
tư tưởng của tác phẩm.

          Ngòi bút nam
Cao có khả năng miêu tả trực tiếp cả quá trình vận động và phát triển tâm lý,
tính cách nhân vật. Sức mạnh và chiều sâu của chủ nghĩa tâm lý trong sáng tác của
Nam Cao còn được thể hiện ở chỗ quá trình tâm lý của nhân vật được ông thể hiện
như là quá trình đấu tranh, sự chuyển hóa lẫn nhau của những mâu thuẫn, những mặt
đối lập trong thế giới tâm hồn của mỗicon người. Xung đột chủ yếu trong những
tác phẩm của Nam Cao là xung đột của thế giới nội tâm nhân vật. Và những sự kiện
cũng được triển khai chủ yếu trên cái nền xung đột bên trong đó. Nhìn chung
trong mỗi nhân vật của Nam Cao luôn tồn tại hai khuynh hướng đấu tranh với
nhau, phủ định lẫn nhau: khuynh hướng sống sao cho sướng hơn và khuynh hướng sống
sao cho tốt hơn, có ích, có ý nghĩa hơn. Những tác phẩm viết về người trí thức
đều thể hiện cuộc đấu tranh triền miên, căng thẳng, sự giằng xé phức tạp, quyết
liệt diễn ra trong tâm hồn con người giữa chủ nghĩa nhân đạo cao cả và chủ
nghĩa cá nhân ích kỉ, giữa lí tưởng, khát vọng cao đẹp và thực tại nghiệt ngã,
phũ phàng, giữa thái độ buông xuôi phó mặc cho hoàn cảnh và sự vùng vẫy, gắng gượng
thoát ra khỏi thực trạng đó.

          Trong tác
phẩm Nam Cao thường miêu tả ảnh hưởng của các quan hệ xã hội, của hoàn cảnh đối
với việc hình thành tâm lý, tính cách con người. Và ông đã miêu tả những diễn
biến tâm lý do hoàn cảnh quyết định một cách chính xác. Qua việc miêu tả, phân
tích quá trình tâm lý tư tưởng của nhân vật tác giả phản ánh hiện thực xã hội.          Nam Cao đã sử dụng linh hoạt nhiều hình
thức và thủ pháp nghệ thuật để thể hiện tâm lý nhân vật, đặc biệt ông sử dụng rộng
rãi và đầy hiệu quả hình thức độc thoại nội tâm. Trong số những nhà văn hiện thực
phê phán Việt Nam, Nam cao là người sử dụng thành công nhất hình thức độc thoại
nội tâm để diễn tả chân thực những suy nghĩ sâu kín nhất trong tâm hồn con người.

          Có thể nói
chủ nghĩa tâm lý đã trở thành một ý thức nghệ thuật thấm nhuần trong sáng tác của
Nam Cao, tạo nên một đặc điểm nghệ thuật nổi bật đem đến cho sáng tác của ông một
sức hấp dẫn to lớn. Nam cao không chỉ phản ánh hiện thực xã hội mà còn đi sâu
vào miêu tả, phân tích sâu sắc thế giới tinh thần của nhân vật, thể hiện đời sống
tinh thần bên trong của họ, qua đó làm nổi bật ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm.

4. Ngôn ngữ, giọng điệu

Trong
tác phẩm của Nam Cao ngôn ngữ không chỉ là công cụ, là phương tiện miêu tả mà
còn là đối tượng miêu tả. Ngôn ngữ trong sáng tác của Nam Cao là ngôn ngữ đa
âm, phức điệu, hiện đại. Ông không chỉ sử dụng đắc địa đại từ nhân xưng: nó,
hắn, y, thị, gã mà còn có khả năng hóa thân, nhập vai vào tất cả các nhân vật,
suy nghĩ và nói năng bằng tiếng nói của nhân vật.

          Trong sáng
tác của Nam Cao có sự hòa quện giữa ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật,
có sự chuyển hóa, trao đổi từ ngôn ngữ người kể chuyện sang ngôn ngữ nhân vật.
Trong “Chí
Phèo” diễn ra mạch ngầm đối thoại giữa người kể chuyện với
Chí Phèo, giữa nhân vật Chí Phèo với làng Vũ Đại. Nam Cao để một
đoạn cụ Bá kể chuyện bà Tư nhưng thực chất là bày tỏ tâm trạng của mình. Đó là
ngôn ngữ đối thoại nội tại, một đặc trưng của ngôn ngữ trong sáng tác Nam Cao.

          Sự thành thạo trong sử dụng ngôn ngữ của
Nam Cao còn thể hiện ở ngôn ngữ đối thoại mang đầy chất văn xuôi đời thường,
ngoài việc thực hiện chức năng tự sự còn là để khắc họa tính cách nội tâm nhân
vật (Chí Phèo, Sống mòn, Lão Hạc…).

          Bên cạnh đó Nam Cao có nhiều đóng góp
trong việc miêu tả lời thoại nội tâm, tạo điều kiện đi sâu vào phân tích tâm lý
nhân vật, khiến nhân vật đối diện với chính mình tự phơi bày, tạo ra những cuộc
tranh luận ngầm, bộc lộ ý kiến cá nhân của nhân vật về vấn đề nhân cách con người,
sáng tạo nghệ thuật (Lão Hạc, Đời thừa, Giăng
sáng, Sống mòn).

          Giọng điệu là một
yếu tố quan trọng đối với một tác giả. Mỗi một nhà văn thường cố gắng tạo cho
mình một giọng điệu riêng, phù hợp với thái độ nghệ thuật của mình. Nguyễn Công
Hoan nổi bật giọng điệu suồng sã, giễu cợt, châm biếm sâu cay. Vũ Trọng Phụng
là giọng mỉa mai, cay độc, đầy phẫn uất, Nguyên Hồng đầy yêu thương thống thiết
thì giọng điệu chủ yếu trong tác phẩm Nam Cao là giọng buồn thương, da diết. Đó
là âm điệu chủ đạo làm nên tiếng nói nghệ thuật riêng, độc đáo của ông thể hiện
sự cảm thông, thương xót của nhà văn trước những số phận nhỏ bé, bất hạnh, những
kiếp sống mòn mỏi, quẩn quanh không lối thoát (Dì Hảo, lão Hạc, Một đám cưới, Nước mắt, Sống mòn…). Cùng là giọng
buồn thương, da diết nhưng ở mỗi tác phẩm Nam Cao lại thể hiện một sắc thái giọng
điệu riêng. “Một đám cưới” là giọng buồn
thương, chua xót ngậm ngùi, gợi lên nỗi niềm day dứt khôn nguôi về những kiếp sống
mòn mỏi, dật dờ trong bóng tối, trong “Điếu văn” là giọng điệu buồn thương ai
oán khi kể về cuộc đời nhục nhằn và cái chết tội nghiệp của một người bạn. Ở “Lão Hạc” là giọng buồn thương chua chát xen lẫn nỗi
xót xa, tội nghiệp trước cuộc đời bất hạnh, đáng thương như lão Hạc. Cùng là
nhà văn có trái tim nhân đạo, hướng ngòi bút mình vào những con người nhỏ bé,
những số phận đáng thương trong xã hội cũ nhưng giọng điệu chủ đạo của Nam Cao
vẫn có âm sắc riêng khác với Thạch Lam. Trong truyện Thạch Lam ta bắt gặp giọng
điệu nhỏ nhẹ, điềm đạm, dịu dàng thể hiện thái độ nâng niu, trân trọng với tất
cả những gì bình dị của cuộc sống. Còn ở Nam Cao trong cái giọng điệu buồn
thương da diết ấy luôn chứa đựng những suy ngẫm triết lý sâu xa về cuộc đời, về
con người. Ông không chỉ xót thương những kiếp người nhỏ bé, những con người dưới
đáy của xã hội mà luôn day dứt, trăn trở, ráo riết truy tìm nguyên nhân của những
tấn bi kịch không lối thoát của con người.

          Trong truyện của Nam Cao ta thường bắt
gặp một giọng điệu có sắc thái tưởng chừng đối lập nhau. Ấy là giọng khách quan
lạnh lùng, tàn nhẫn bên ngoài mà cảm thông, thương xót bên trong. Bề ngoài Nam
Cao tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn với cái nhìn tỉnh táo, sắc sảo, nhà văn luôn giữ
khoảng cách, tách sự đồng cảm của mình ra khỏi đối tượng được miêu tả. Sử dụng
giọng điệu này Nam Cao không tạo ra một giọng điệu chủ đạo, thống lĩnh. Ông đã có
đóng góp lớn trong việc đa thanh hóa giọng điệu tự sự. Trong một tác phẩm cụ thể,
mỗi đoạn, mỗi tứ vẫn có sự chuyển hóa giọng điệu tạo nên sức hấp dẫn trong tác
phẩm của Nam Cao. Trong mỗi tác phẩm của ông có sự pha trộn tài tình các kiểu
giọng điệu. Người đọc có thể nhận ra trên những trang viết của nam Cao giọng
khách quan lạnh lùng, giọng cảm thông thương xót, giọng buồn thương da diết, giọng
triết lý…

          Có thể nói Nam Cao là một trong những
nhà văn tiêu biểu nhất trong nền văn học hiện đại Việt Nam có tư tưởng, phong
cách và thi pháp sáng tạo riêng độc đáo, có những cách tân lớn lao, góp phần
quan trọng vào tiến trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc.         

III. Đặc sắc nghệ thuật của truyện ngắn Chí Phèo

1. Bút pháp điển hình
hoá đạt tới trình độ bậc thầy trong xây dựng nhân vật.

Nam Cao có biệt tài trong việc miêu tả,
phân tích tâm lý nhân vật. Tác giả có khả năng trong việc miêu tả tâm lý phức tạp
của nhân vật, làm cho nhân vật hiện lên trước mắt người đọc rất sống động, có
cá tính độc đáo. Nam cao đã sử dụng nhiều thủ pháp, nhiều phương tiện để miêu tả
tâmlý nhân vật, tạo nên một chủ nghĩa tâm lý trong sáng tác của ông. Nam Cao
thường sử dụng thiên nhiên làm phương tiện để thể hiện trạng thái tâm lý của
nhân vật. Khung cảnh thiên nhiên được cảm nhận qua đôi mắt của Chí Phèo sau khi
thức tỉnh: “ tiếng
chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh
thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá…” là những âm thanh
quen thuộc của cuộc sống mà bấy lâu nay Chí Phèo không nhận thấy, giờ trở thành
tiếng gọi tha thiết kéo Chí Phèo trở lại với cuộc sống lương thiện, đánh thức
khát khao lương thiện trong tâm hồn Chí

Chí Phèo, Bá Kiến là những điển hình nghệ
thuật bất hủ. Họ vừa tiêu biểu cho một loại người có bề dày xã hội, vừa là những
con người rất cụ thể, có sức sống nội tại mạnh mẽ.

Khác với những nhân vật của một số nhà
văn đương thời có chức năng chủ yếu là khái quát tính cách nhân vật. “Chí Phèo”
của Nam Cao đã khái quát một hiện tượng phổ biến đã trở thành quy luật trong xã
hội lúc bấy giờ; hiện tượng những người nông dân nghèo lương thiện do bị áp bức
bóc lột đè nén nặng nề bị đẩy vào con đường tha hoá lưu manh.

Khi
xây dựng nhân vật, Nam Cao tạo ấn tượng bằng hai cách: hoặc là miêu tả chi tiết,
đặc tả diện mạo bên ngoài, hoặc là chỉ thoáng qua, không vẽ chi tiết cụ thể về
diện mạo của nhân vật. Ở những sáng tác viết về người nông dân Nam Cao thường tạo
nên những nhân vật dị dạng và tập trung miêu tả chi tiết hình dáng bên ngoài của
những nhân vật này. Đó là bộ mặt “nặng
chình chĩnh như người phù, da như da con tằm bủng, lại lấm tấm đầy những
tànnhang. Cái trán ngắn ngủn, ngắn ngùn lại gồ lên. Đôi mắt thì híp lại như mắt
lợn sề”
của Lang Rận. Là bộ mặt “vằn
dọc vằn ngang không thứ tự biết baonhiêu là sẹo” của Chí Phèo
hay bộ mặt xấu đến mức ma chê qỷ hờn của Thị Nở. Đặc tả những bộ mặt dị dạng,
ghê tởm của nhân vật là cách thức để Nam Cao làm rõ hơn tính cách bên trong của
nhân vật. Ẩn sâu dưới cái vẻ bề ngoài ghê tởm, đáng sợ ấy là những con người hết
sức đáng thương. Do hoàn cảnh xô đẩy mà Chí Phèo từ một người nông dân hiền
lành, lương thiện bị biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, một kẻ đâm thuê
chém mướn, gây ra không biết bao nhiêu tội ác, nhưng rồi Nam Cao vẫn phát hiện
ra đốm sáng lương tri còn sót lại trong con người bị tước đoạt cả nhân hình và
nhân tính ấy. Chí Phèo thức tỉnh và khát khao trở lại làm người lương thiện. Thị
Nở là người đàn bà xấu đến mức ma chê quỷ hờn, nhà lại có dòng giống mả hủi, Thị
lại dở hơi nên cả làng Vũ Đại đều xa lánh Thị: “người ta tránh Thị như tránh một con vật nào rất tởm”.
Một
người phụ nữ như thế mà Chí Phèo muốn chung sống làm lại cuộc đời cũng không được
xã hội thừa nhận. Khi miêu tả Thị Nở Nam Cao đã sử dung bút pháp cường điệu để
tô đậm cái xấu của Thị Nở, Thị Nở càng xấu thì bi kịch của Chí Phèo càng lớn.
Khi xây dựng nhân vật người trí thức Nam Cao ít khi miêu tả ngoại hình. Ông chỉ
chú ý đến những nét ngoại hình thể hiện tâm lý, tính cách nhân vật mà ông tập
trung đi sâu vào đặc tả diện mạo tinh thần nhân vật qua những giằng xé, những
cuộc vật lộn căng thẳng về tinh thần bên trong của nhân vật. Tâm lý nhân vật trở
thành đối tượng chính của ngòi bút Nam Cao.

          Tài năng miêu tả tâm lý của Nam Cao thể
hiện ở chỗ ông có khả năng nắm bắt những biến thái tinh vi, những rung động
tinh tế trong tâm hồn con người. Ông là một nhà văn có biệt tài khi miêu tả những
trạng thái tâm lý phức tạp, những hiện tượng lưỡng tính dở say dở tỉnh, dở khóc
dở cười, mấp mé ranh giới giữa thiện và ác, hiền với dữ, giữa con người với con
vật. Với tài năng bậc thầy Nam Cao đã diễn tả cụ thể, sâu sắc diễn biến tâm trạng
của Chí Phèo sau khi gặp thị Nở. Thị Nở với bát cháo hành tình nghĩa đã làm sống
dậy bản chất lương thiện trong con người Chí. Sau bao nhiêu năm ngập sâu trong
vũng bùn tội lỗi, giờ đây Chí Phèo lại khát khao trở về với cuộc sống lương thiện.

Tuy
nhiên nhân vật của Nam Cao còn thể hiện như một nhân vật có cá tính hết sức độc
đáo, không lặp lại, vừa đa dạng vừa thống nhất. Chí Phèo vừa là kẻ bán rẻ cả
nhân tính, nhân hình để tồn tại, vừa là kẻ dám thủ tiêu sự sống của mình khi
nhân phẩm đã trở về. Chí Phèo vừa là con quỷ dữ của làng Vũ Đại, một thằng triền
miên chìm trong cơn say đến mất cả lý trí, vừa là kẻ khao khát lương thiện, muốn
làm hoà với mọi người, vừa là một kẻ nô lệ thức tỉnh, một đầu óc sáng suốt nhất,
tỉnh táo nhất của làng Vũ Đại khi đặt ra những câu hỏi có tầm khái quát sâu sắc
về quyền được làm người lương thiện đến mức Bá Kiến cũng phải ngạc nhiên, Chí
Phèo vừa là kẻ cố cùng, vừa là người tự xưng “anh hùng làng này cóc thằng nào bằng
ta”. Chí phèo, Binh chức, Năm Thọ
trong “Chí Phèo” vốn là những con người lương thiện nhưng bị đẩy vào con
đường tha hóa, lưu manh hóa, mất cả nhân hình và nhân tính. Viết về những người
nông dân bị đẩy vào con đường tha hóa Nam Cao đã lên án gay gắt xã hội bất
công, ngang trái đã chà đạp lên nhân phẩm con người, đồng thời phát hiện và khẳng
định bản chất lương thiện vẫn luôn tồn tại ở ngay cả những con người bị tha hóa ấy.

2. Nghệ thuật trần thuật
kể truyện linh hoạt tự nhiên phóng túng mà vẫn nhất quán, chặt chẽ, đảo lộn
trình tự thời gian, mạch tự sự có những đoạn hồi tưởng, liên tưởng tạt ngang,
tưởng như lỏng lẻo mà thực sự rất tự nhiên, hợp lý, hấp dẫn.

          Ở truyện “Chí Phèo”, Nam Cao đã để nhân vật xuất hiện bắt đầu
bằng tiếng chửi: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ
cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời…”. Cách mở truyện
như vậy gây ấn tượng và tạo sự cuốn hút với người đọc về cuộc đời, số phận của
nhân vật.

          Nam Cao cũng
hay sử dụng và sử dụng thành công kiểu kết cấu vòng tròn. Đây là kiểu kết cấu
mà phần mở đầu và phần kết thúc của tác phẩm có sự tương ứng với nhau; những
hình ảnh, những tình tiết xuất hiện ở đầu tác phẩm bằng hình thức này hay hình
thức khác, lại được gợi ra một cách đầy ám ảnh ở cuối tác phẩm. Hình thức kết cấu
này đòi hỏi một sự sắp xếp hợp lý các sự kiện, các tình tiết tạo nên sự liên kết
chặt chẽ giữa chúng. Đọc “Chí Phèo” ta cứ mãi bị
ám ảnh bởi hình ảnh “chiếc lò gạch cũ” xuất hiện ở phần đầu và phần cuối tác phẩm.
Hình ảnh ấy vừa có ý nghĩa mở đầu và kết thúc, khép lại cuộc đời của một kẻ khốn
khổ tủi nhục nhất trong xã hội thực dân phong kiến, vừa như dự báo về sự xuất hiện
của một kiếp người mà số phận chắc sẽ còn thê thảm hơn nhiều. Bằng kiểu kết cấu
này Nam Cao muốn nói rằng: chừng nào xã hội còn nhiều bất công, ngang trái thì
chừng ấy vẫn còn nhiều cuộc đời, nhiều số phận như Chí Phèo. Ở truyện “Đời thừa”
kết cấu vòng tròn lại tạo ấn tượng sâu đậm về sự luẩn quẩn,
bế tắc, không lối thoát của nhân vật Hộ. Là một nhà văn có lý tưởng, có hoài
bão nhưng vì lẽ sống tình thương, vì gánh nặng gia đình Hộ buộc phải hi sinh lý
tưởng, viết dễ dãi để nuôi sống gia đình, vì vậy mà Hộ luôn day dứt, tự dày vò
bản thân, Hộ tìm đến rượu để quên đi những đau đớn về tinh thần. Lúc say Hộ đối
xử với vợ con như một kẻ vũ phu, nhưng khi tỉnh lại Hộ lại vô cùng hối hận,
tuyên bố sẽ chừa rượu, nhưng rồi Hộ lại uống và lại thô bạo với vợ con …sau đó
lại ăn năn, hối hận. Kết cấu vòng tròn của tác phẩm đã góp phần làm nổi bật tấn
bi kịch tinh thần luẩn quẩn, không lối thoát của nhân vật Hộ.

3. Ngôn ngữ của Nam Cao cũng đặc biệt tự nhiên, sinh động, sử dụng khẩu ngữ
quần chúng một cách triệt để, mang hơi thở đời sống, giọng văn hoá đời sống
.

Ngôn ngữ kể
chuyện vừa là ngôn ngữ của tác giả, vừa là ngôn ngữ của nhân vật, nhiều giọng
điệu đan xen, tạo nên một thứ ngôn ngữ đa thanh đặc sắc.

“Chí Phèo” đánh dấu một trình độ phát
triển mới của văn học và nghệ thuật viết truyện ở nước ta.

Chương II: Một số đề
luyện tập

Đề 1:  Nói về tính độc đáo của sáng tác văn học, có
ý kiến cho rằng:

          “Nghệ
thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy nó đòi hỏi người sáng tác phải có
phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong tác phẩm
của mình”.

          Hãy phân tích nét đặc sắc trong truyện
ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao để làm rõ ý kiến trên.

Hướng dẫn{

1. Giới thiệu tác giả,
tác phẩm, vấn đề phân tích

2. Giải thích ý kiến

-“Cái độc
đáo
“: là sáng tạo mới mẻ, mang dấu ấn cá nhân của mỗi nhà văn,
không lặp lại ai và cả chính mình. Để có “cái độc đáo” đòi hỏi
người nghệ sĩ phải có tài năng, năng khiếu vượt trội. Chính “cái độc
đáo
” sẽ tạo nên “phong cách nổi bật” (phong cách
nghệ thuật) của người nghệ sĩ đó.

-“Nét đặc
sắc trong truyện ngắn
” là những nét riêng biệt, mới lạ, độc đáo của
một tác phẩm văn học thể hiện qua quá trình nhận thức và phản ánh cuộc sống. Những
nét độc đáo ấy thể hiện trong tất cả các yếu tố nội dung và hình thức của tác
phẩm cụ thể. Nói cách khác, phong cách là sự thể hiện tài năng của người nghệ
sĩ trong việc đưa đến cho độc giả một cái nhìn mới mẻ về cuộc đời thông qua những
phương thức, phương tiện nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân của người sáng tạo.

3. Nét đặc sắc của truyện
ngắn “Chí Phèo”

a.Thể
hiện trước hết ở cách nhìn, cách cảm thụ có tính chất khám phá riêng biệt của
tác giả về đời sống

-Tập
trung khám phá thế giới tinh thần bên trong của con người để làm nổi bật tình
trạng tha hóa và chết mòn về tinh thần của con người. Khi nhìn vào con người,
điều Nam Cao chú ý nhất là nhân cách (Nam Cao chọn chỗ đứng mới, khác các nhà
văn trước ông)

-Nam
Cao nhìn người nông dân bằng đôi mắt tình thương+ lí trí ( khác Nguyên Hồng-
tình thương)

b.
Thể hiện qua sự sáng tạo các yếu tố thuộc nội dung của tác phẩm

-Đề
tài: người nông dân- những con người đáy cùng xã hội

-Cảm
hứng: xót thương, tố cáo

-Kiểu
nhân vật: tha hóa

c.
Thể hiện qua hệ thống phương thức biểu hiện

-Nghệ
thuật miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật: miêu tả những biến thái tinh vi
trong tâm lí và quá trình vận động của tính cách nhân vật (những thay đổi của
Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở, khát khao làm người lương thiện của Chí,… )

-Điểm
nhìn: đan cài nhiều điểm nhìn, tạo ra ngôn ngữ nửa trực tiếp


Ngôn ngữ và giọng điệu:

+
Ngôn ngữ sắc sảo, chân thật, hay dùng khẩu ngữ 
đa thanh, đối thoại

+
Giọng điệu khách quan, lạnh lùng, tàn nhẫn nhưng đầy thương cảm, đằm thắm yêu
thương                              


Cấu trúc: theo số phận nhân vật (Kết cấu vòng tròn độc đáo)

4. Đánh giá chung


Chí Phèo là một đỉnh cao trong sự
nghiệp văn học của Nam Cao, những gì sâu sắc nhất, cảm động nhất đều được hội tụ
trong tác phẩm này


Trong tác phẩm đã hình thành đầy đủ những tố chất làm nên phong cách Nam Cao,
có thể nói về một loại hình nhân vật kiểu Nam Cao, kiểu cấu trúc Nam Cao, giọng
văn Nam Cao,… một phong cách độc đáo, riêng biệt không hề trộn lẫn trong giai
đoạn văn học Việt Nam 1930- 1945 và trong nền văn học dân tộc.

Lưu
ý: Thí sinh có thể làm bài theo những cách khác nhau, nhưng cần đảm bảo những
yêu cầu về kiến thức trên.

Đề 2: Bàn về
truyện ngắn, nhà văn Nguyễn Kiên cho rằng:

“Một truyện ngắn hay vừa là
chứng tích của một thời, vừa là hiện thân của một chân lí giản dị của mọi thời.”

Qua phân tích truyện ngắn “ Chí
Phèo” của Nam Cao, hãy bàn luận ý kiến trên. Liên hệ với “Chuyện chức phán sự
đền Tản Viên ” của Nguyễn Dữ để lí giải vì sao đây là những tác phẩm luôn nhận
được sự hoan nghênh của đời sau?

Hướng dẫn

A.Về hình thức: Đảm bảo đúng yêu cầu của một bài
văn nghị luận văn học, diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, sử dụng câu, từ chuẩn mực,
chính xác, bố cục chặt chẽ, lôgic, không mắc lỗi chính tả.

B. Về nội dung: Bài làm cần đạt được những nội
dung cơ bản sau:

1. Giải
thích


Nhận định bày tỏ quan niệm, yêu cầu đối với một truyện
ngắn hay:

+ Là chứng tích của một thời: phản ánh chân thực hiện
thực thời đại, đặt ra những vấn đề quan trọng, bức thiết của cuộc sống, con
người đương thời (bản chất hiện thực, số phận con người, nỗi trăn trở nhân
sinh…)

+ Là hiện thân của một chân lí giản dị của mọi thời: 
tác phẩm đặt ra, chạm tới được những chân lí giản dị –
những vấn đề bình dị nhưng đúng đắn, là cốt lõi, bản chất, mang tính quy luật
phổ quát, lâu dài của nhân sinh muôn thuở.

– Truyện ngắn hay là
những tác phẩm hài hòa hai giá trị: vừa soi bóng thời đại, ghi dấu những vấn đề
lớn, cốt lõi của thời đại – vừa có ý nghĩa lâu dài, chạm đến những chân lí bình
thường, phổ quát, muôn đời..

2. Bình luận: Đây là nhận định đúng đắn, sâu
sắc, đặt ra yêu cầu tất yếu đối với một tác phẩm có giá trị và sức sống lâu
dài.

– Đặc trưng về đối tượng phản ánh
của văn học nói chung, truyện ngắn nói riêng là khám phá, miêu tả, soi bóng
thời đại mà nó ra đời: hiện thực cuộc sống, đời sống con người, đặt ra những
vấn đề nhân sinh phong phú, phức tạp…


Đặc trưng của truyện ngắn: thể loại tự sự cỡ nhỏ, dung lượng ngắn, thường chỉ
kể về một tình huống đặc biệt của đời sống, với số lượng không nhiều các nhân
vật, tình tiết, chi tiết, qua đó gửi gắm những thông điệp tư tưởng, tình cảm
của tác giả.

– Truyện ngắn hay phải là những tác phẩm kết tinh
hài hòa hai giá trị:

+ Là chứng tích của một thời: tác phẩm phải phản ánh được
bức tranh sâu rộng về hiện thực thời đại, xây dựng được những chân dung nhân
vật vừa chân thực vừa điển hình của thời đại, đặt ra được những vấn đề cốt lõi,
quan trọng, bức thiết nhất đương thời. Mỗi trang văn đều soi bóng thời
đại mà nó ra đời (Tô Hoài)

+ Là hiện thân của một chân lí giản dị của mọi thời: khi
tác phẩm chạm đến được chiều sâu của hiện thực, đặt ra được một hoặc nhiều vấn
đề tuy giản dị, bình thường nhưng là bản chất, cốt lõi, có tính quy luật, là
chân lí phổ quát muôn đời. Khi đó, tác phẩm là kết quả của sự gắn bó, trăn trở
sâu sắc với thời đại và nhân sinh, thực sự có giá trị và sức sống lâu dài.

– Giá trị và sức sống ấy chỉ có được
khi tác phẩm có chất lượng nghệ thuật cao: tuy dung lượng ngắn, tình huống độc
đáo, nhân vật không nhiều, chi tiết cô đúc … nhưng có độ dồn nén, hàm súc, khả
năng khái quát, điển hình.

3. Chứng minh qua tác
phẩm Chí Phèo (Nam Cao) .

Thí
sinh làm sáng tỏ nhận định qua các dẫn chứng diện và điểm, trong đó đi sâu phân
tích cụ thể hai truyện ngắn được nêu ở đề bài.

Thí sinh có thể triển khai theo
nhiều cách, song cần bám sát định hướng của đề, cần đạt được những yêu cầu cơ
bản sau:

–  Truyện ngắn Chí Phèo là chứng tích của một thời:

+
Qua câu chuyện về làng Vũ Đại, Nam Cao đã dựng lên bức tranh chân thực về nông
thôn Việt Nam nghèo đói, xơ xác, mâu thuẫn giai cấp gay gắt, bọn thống trị tàn
bạo, thâm độc đẩy người nông dân vào tình trạng tha hóa, lưu manh hóa, đến bước
đường cùng, hoặc để yên thân thì trở nên vô cảm với bi kịch của đồng loại.

+
Truyện xây dựng thành công những nhân vật vừa sống động, cụ thể vừa tiêu biểu,
điển hình, đặc biệt là nhân vật Chí Phèo – hiện tượng khái quát, có tính quy
luật cho tình trạng tha hóa bi thảm, bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của
người nông dân nói riêng, con người nói chung trong xã hội đương thời.

+
Qua đó, Nam Cao gửi gắm thông điệp mang tinh thần nhân đạo sâu sắc của thời
đại: nỗi xót xa trước bi kịch tha hóa và bị cự tuyệt quyền làm người, lòng tin
vào sự bất diệt của nhân tính và sức mạnh cảm hóa, thức tỉnh của nhân tình
trong một xã hội bạo tàn, vô nhân đạo.


Tác phẩm còn là hiện thân của một chân lí giản dị của mọi
thời:học sinh có thể chọn phân tích một trong
những vấn đề mang giá trị chân lí giản dị của
mọi thời trong thiên truyện:

+
Bi kịch đau khổ nhất của con người không chỉ là bị bần cùng hóa, bị đe dọa bởi
đói nghèo, áp bức bất công, mà là sự tha hóa, bị hủy hoại nhân hình và nhân
tính đến mức thành kẻ lưu manh, thành con quỷ dữ. Đây là bi kịch bi thảm không
chỉ của một thời mà còn của muôn đời.

+ Niềm tin vào sự bất diệt của nhân
tính và sức mạnh cảm hóa của nhân tình mộc mạc, chân thành: nhân tính của con
người không dễ gì bị hủy diệt, bản tính hiền lành lương thiện và khát vọng
hướng thiện khi gặp nhân tình sẽ thức tỉnh và bất diệt; tình người, sự quan
tâm, chăm sóc, yêu thương mộc mạc, chân thành sẽ có sức mạnh cảm hóa, thức tỉnh
để phần người hồi sinh.

3. Liên hệ với “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” của
Nguyễn Dữ

– 
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” của Nguyễn Dữ phản ánh chân thực hiện thực
thời đại, bối cảnh của xã hội thế kỉ XV nhưng thực chất là muốn phơi bày hiện
thực xã hội mà ông đang sống – đầu thế kỉ XVI với nhiều bất công ngang trái: kẻ
ác lộng hành, được hưởng an nhàn, sung sướng, người hiền phải chịu nhiều oan
khuất, sống khổ cực; quan lại tham lam của đút, người đại diện cho pháp luật bị
lấp tai, che mắt. Đó chính là hiện thực hết sức bất ổn được Nguyễn Dữ phản ánh
trong tác phẩm.


Vạch trần bộ mặt gian tà của không ít kể đương quyền “quen dùng chước dối lừa,
thích làm trò thảm ngược”.

+
Lên án một quan tham lại nhũng đương thời

+
Đồng thời còn tố cáo mạnh mẽ hiện thực xã hội với “rễ ác mọc lan, khó lòng lay
động”, “vì tham của đút” mà bênh vực cho kẻ gian tà.


Tác giả đề cao phẩm chất người quân tử: Ngô Tử Văn là hình tượng tiêu biểu cho
kẻ sĩ cương trực, khảng khái, kiên quyết chống gian tà.


Nguyễn Dữ đã thể hiện sâu sắc tinh thần tự hào dân tộc:

+
Viên Bách hộ họ Thôi khi sống đã thất bại nhục nhã trên đất Việt, lúc chết thành
hồn ma lẩn quất làm điều dối trá, càn bậy, nên lại tiếp tục nếm  mùi thất
bại. Phải chăng đó là số phận chung cho những tên xâm lược?


Câu chuyện kết thúc với thắng lợi thuộc về Ngô Tử Văn: cội nguồn truyền thống
nhân đạo và yêu nước của dân tộc Việt Nam chính nghĩa thắng gian tà, tinh thần
dân tộc thắng ngoại xâm.

-> Tác phẩm đặt ra, chạm tới được
những chân lí giản dị – những vấn đề bình dị nhưng đúng
đắn, là cốt lõi, bản chất, mang tính quy luật phổ quát, lâu dài của nhân sinh
muôn thuở.

4. Bàn bạc,
mở rộng vấn đề


Nhận định chủ yếu khẳng định giá trị, vẻ đẹp, sức sống của thể loại truyện ngắn
ở phương diện ý nghĩa nội dung tư tưởng, song cũng cần nhắc tới những yêu cầu,
phẩm chất về nghệ thuật của thể loại: dựng chuyện, kể chuyện hấp dẫn; xây dựng
nhân vật; lựa chọn sáng tạo chi tiết, giọng điệu, lời văn…


Ý kiến được nêu cũng gợi nhắc những đòi hỏi, yêu cầu:

+
Đối với người sáng tác: phải gắn bó, hiểu biết sâu sắc, trăn trở và nói lên
những vấn đề thiết cốt nhất của thời đại để tác phẩm của mình thực sự là chứng tích của một thời; đồng thời đào sâu vào những
vấn đề bản chất, chân lí của nhân sinh để tác phẩm có ý nghĩa và sức sống lâu
dài, vượt tầm thời đại.

+ Đối với người đọc: tiếp nhận, trân
trọng giá trị của những tác phẩm hay giúp ta hiểu sâu rộng hơn về cuộc sống,
con người một thời và thấy được ý nghĩa của tác phẩm với muôn đời, muôn người,
trong đó có chúng ta và thời đại mình đang sống.

Đề 3:

Trong bài ngoại cảnh trong văn chương,
in trên báo Tràng An, số 82, ngày 10-12 -1935, Hoài Thanh viết: “Nhà văn không có phép thần thông để
vượt ra khỏi thế giới này, nhưng thế giới này trong con mắt nhà văn phải có một
hình sắc riêng”.
(Hoài Thanh, trích Bình luận văn chương, NXB Giáo dục, 1998, tr54)

Anh (chị) hiểu như thế nào về ý kiến
trên. Hãy làm sáng tỏ.

Hướng dẫn

1.
Giải thích câu nói: Khẳng định tính sáng tạo của nhà văn, cái riêng, sự độc đáo
của mỗi tác giả trong tác phẩm. Mỗi nhà văn phải có một thế giới nghệ thuật
riêng, một “chân trời” riêng, một “biên cương” riêng. Nhà văn có phong cách thì
mới được người đọc chấp nhận và yêu mến. Phong cách càng độc đáo thì sức hấp dẫn
càng lớn. Nhà văn phải bám sát hiện thực, mỗi tác phẩm phải là một thế giới
riêng biệt không lặp lại.

2.Chứng
minh bằng các tác phẩm tiêu biểu.

3.
Nâng cao vấn đề và rút ra bài học


Đối với nhà văn khi sáng tạo không lặp lại mình không lặp lại người khác. Phải
có cách nhìn, khám phá, phong cách độc đáo.


Đối với người đọc: xem tác phẩm viết gì, viết như thế nào.


Đối với lịch sử văn học: thực chất đóng góp của nhà văn thể hiện cách nhìn, sự
mới mẻ.

 
(Văn chương không có gì riêng sẽ không là gì cả hoặc Mác-xen Pruxt
cho rằng:  Một cuộc thám hiểm thực sự không phải ở chỗ cần một vùng đất mới
mà cần một đôi mắt mới.)

Đề 4:

Phân tích thế giới nghệ thuật về những
con người tha hóa và bản lĩnh cái nhìn nghệ thuật của Nam Cao qua truyện ngắn
“Chí Phèo” và “Đời thừa”.

Hướng dẫn:

 I.Yêu
cầu chung.

1.Biết
cách làm bài nghị luận văn học.

2.Hiểu
và làm rõ vấn đề cần nghị luận: Thế giới nghệ thuật về những con người tha hóa
và bản lĩnh cái nhìn nghệ thuật của Nam Cao.

3.
Biết vận dụng hơp lý, linh hoạt các loại kiến thức về văn học sử, lý luận văn học,
đọc-hiểu để giải quyết thuyết phục nội dung cần nghị luận.

II.
Yêu cầu cụ thể.

Thí
sinh có thể diễn đạt, trình bày theo những cách khác nhau, song cần thể hiện được
những nội dung chính sau.

1.Giới
thiệu chung.

a.Về
tác gia Nam Cao (vị trí, đóng góp nổi bật).

b.
Thế giới nghệ thuật :

+Thế
giới nghệ thuật- Bản lĩnh cái nhìn nghệ thuật.

+Thế
giới nghệ thuật riêng của Nam Cao là những người tha hóa. Họ là những người
nông dân nghèo, là những trí thức- tiểu tư sản nghèo( nhà văn, nhà báo, nhà
giáo, sinh viên nghèo,…)

+Viết
về thế giới những con người như thế, NC thực sự đã thể hiện và khẳng định được
bản lĩnh cái nhìn nghệ thuật của một nhà văn- hiện thực- nhân đạo- tâm lý bậc
thầy.

2.Thế
giới nghệ thuật về những con người tha hóa trong sáng tác Nam Cao.

a.Thế
giới những người nông dân tha hóa.

+
Đó là những người lao động nghèo, sống lương thiện nhưng bị hoàn cảnh xô đẩy
vào “bước đường cùng” mà trở nên tha hóa, lưu manh.

(Phân
tích hình tượng Chí Phèo để làm sáng tỏ quá trình tha hóa của  nhân vật)

b.Thế
giới những người trí thức tiểu tư sản tha hóa.

+Họ
là những trí thức TTS nghèo, khao khát khẳng định mình, tỏa sáng tài năng, nhân
cách để sống ý nghĩa nhưng rồi cũng bị hoàn cảnh làm tha hóa.

(Phân
tích hình tượng nhân vật Hộ,…)

Tất
cả họ là hiện thân của một nỗi khổ, nỗi đau Người rất phổ biến trong xã hội Việt
Nam giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 : sinh ra là người mà không được
làm Người.

3.Bản
lĩnh cái nhìn nghệ thuật của Nam Cao:

+Nhà
văn không chỉ phản ánh hiện thực đau đớn khốn cùng của con người, quan trọng
hơn đã có những lý giải cảm thông, trân trọng và đầy thuyết phục vì sao những
con người đó trở nên tha hóa.

+Quan
trọng hơn, tái hiện quá trình tha hóa của những con người đó, nhà văn không những
không khiến người đọc khinh, ghét họ mà còn khiến người đọc cảm thông, xót
thương và đặc biệt  trân trọng, tin tưởng bản chất lương thiện tốt đẹp của
họ, ngay cả khi họ rơi vào cảnh tha hóa cùng cực đến mức thành “quỷ dữ”.

Nói
cách khác, qua thế giới những con người tha hóa ấy, Nam Cao đã khẳng định đầy
trân trọng và tin tưởng: chính những con người ây, dù rơi vào hoàn cảnh nào,
hoàn cảnh ấy có nghiệt ngã đến đâu, vẫn nỗ lực để sống như một con người.

+
Chuyển hóa bản lĩnh cái nhìn nghệ thuật giàu chất hiện thực, thấm đẫm tinh thần
nhân đạo, nhân văn ấy là sở trường miêu tả, phân tích tâm lý bậc thầy của người
viết.

+
“Có những chủ đề Nam Cao và có những nhân vật Nam Cao” (Lê Đình Kỵ).

+Có
được những phát hiện về số phận con người ở chiểu sâu hiện thực, nhân đạo như
thế, Nam Cao không chỉ có “đôi mắt” quan sát hiện thực tinh, sắc mà còn có trái
tim “nhân đạo từ trong cốt tủy”.

(Bố cục rõ ràng; Trình bày khoa học, hợp
lý; Diễn đạt gãy gọn;Không mắc những lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu thông thường;
Có đoạn/ý sâu sắc, độc đáo.)

Trương Văn Quỳnh

 

 

Trương Văn Quỳnh

Họ tên

no image

no image

Tiêu đề

no image

Nội dung

no image

Mã kiểm tra


no image

Tin khác

  • CHI TIẾT NGHỆ THUẬT TRONG TÁC PHẨM TỰ SỰ

  • Chuyên đề: Rèn luyện nâng cao kĩ năng kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hội cho học sinh giỏi (Nguyễn Thị Hạnh)

  • Rèn kĩ năng lựa chọn ngữ liệu phân tích trong kiểu bài lí luận văn học không giới hạn ngữ liệu chứng minh cho học sinh chuyên văn (Lê Thị La)

  • Kiểu nhân vật tự ý thức trong trang văn của Nam Cao và Nguyễn Minh Châu (Lê Thị La)

  • Tiếng nói tri âm trong Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du), Kính gửi cụ Nguyễn Du (Tố Hữu) và Đàn ghi ta của Lorca (Thanh Thảo) – Bùi Thị Phương Thúy –

  • Chữa lỗi trong bài văn nghị luận xã hội cho học sinh (Bùi thị Phương Thúy)

  • Đặc sắc nghệ thuật và cá tính sáng tạo của thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám 1945 (Phạm Minh Huệ)

  • Chuyên đề: Kĩ năng bồi dưỡng học sinh giỏi với kiểu bài lí luận văn học (Nguyễn Thị Hạnh)

  • Văn xuôi lãng mạn 1930 – 1945 với hai tác giả tiêu biểu trong chương trình THPT: Thạch Lam và Nguyễn Tuân (Nguyễn Thị Vân)

  • Văn học hiện thực 1930 – 1945 (Trương Văn Quỳnh)

1

 2 3 4 5 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *