Top #10 ❤️ Xem Nhiều Nhất Câu Nói Hay Về Ngày Lễ Phật Đản Mới Nhất 9/2022 ❣️ Top Like | Altimofoundation.com

Nhận Quả Báo Đoạ Vào Địa Ngục Nếu Bạn Phá Thai (1)

Lời Phật Dạy Về 7 Tội Nghiệp Làm Giảm Phúc Báo, Nghèo Khó 3 Đời

Lời Phật Dậy : Nạo Phá Thai Phải Chịu Nghiệp Chướng

Qủa Báo Của Việc Phá Thai Và Cách Chuyển Nghiệp Theo Lời Phật Dạy

Kinh Trường Thọ Diệt Tội

1 CHAÙNH PHAÙP PHÁT HÀNH MỖI ĐẦU THÁNG HOẰNG PHÁP TIN TỨC PHẬT SỰ VĂN HỌC PHẬT GIÁO SỐ RA MẮT – THÁNG KỶ NIỆM NGÀY PHẬT ĐẢN NHỚ LỜI PHẬT DẠY Sống cả trăm năm Mà không thấy biết Giáo lý tối thượng Không bằng chỉ sống Một ngày mà biết Giáo lý như vậy (Pháp Cú Nam Tông) Trí Quang Biên Tập, 2545 Từ khi Ðức Phật đản sinh dưới gốc cây vô ưu trong vườn Lâm Tỳ Ni, rồi bước đi bảy bước nói lời đầu tiên: Thiên Thượng Thiên Hạ, Duy Ngã Ðộc Tôn. Các chư Thiên phun xuống hai vòi nước nóng và lạnh để tắm cho Thái tử… tất cả là một bài pháp sống động nhiệm mầu, mãi cho đến nay, đầu thế kỷ 21, vẫn còn hiển hiện rõ nét trong hàng triệu triệu trái tim của nhân loại. Bài pháp ấy, lời dạy ấy như cơn mưa làm tươi mát ngàn cây nội cỏ, làm lớn mạnh cho những khu rừng già đại thọ xanh tươi, tất cả đều được thấm nhuần ân đức của Phật. Phật pháp như chiếc bè đưa người qua sông. Phật pháp như người nghèo được của báu. Phật pháp như ánh đèn chiếu vào nơi tối tăm. Phật pháp như lời Kinh siêu độ trầm hùng, thanh thoát xóa sạch vô minh để minh hiển lộ soi đường đưa kẻ trầm luân đến bờ giải thoát. Phật pháp mang lòng Từ Bi – tình thương vô phân biệt, trang trải đến muôn loài, (tiếp trang 2) PHẬT NGỌC CHO NỀN HÒA BÌNH THẾ GIỚI, trang 5 ĐỨC PHẬT Tác giả: Narada Thera Dịch giả: HT. Thích Trí Chơn Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời tại một vùng ở xứ Nepal (2), là đấng được xem như bậc Thầy của tôn giáo vĩ đại nhất trên thế giới. Ðược nuôi dưỡng trong cảnh xa hoa và hấp thụ một nền giáo dục xứng đáng với một vị hoàng tử, như mọi người, thái tử đã lập gia đình và có một con. Bản tính ưa trầm tư và lòng từ bi bao la của thái tử, đã không cho phép thái tử hưởng thụ những thú vui vật chất nhất thời ở cung điện hoàng gia. Thái tử không hề biết buồn khổ, nhưng người cảm thấy xót thương sâu xa cho sự khổ đau của nhân loại. Mặc dù sống trong cảnh giàu sang phú quí, nhưng thái tử đã ý thức được tính phổ cập của sự khổ đau. Cung điện với mọi thú vui thế gian không còn là nơi thích đáng cho vị hoàng tử đầy lòng từ bi sống nữa. Thời gian thuận tiện đã đến để thái tử xuất gia. Nhận thức được sự hư ảo (phù hoa) của những thú vui khoái lạc, vào năm (tiếp trang 6) VÀI LỜI KHUYÊN CHO TUỔI TRẺ, trang 12 TƯỞNG NIỆM NGÀY SINH CỦA ĐỨC PHẬT GIỮA CƠN KHỦNG HOẢNG HIỆN NAY Trên mặt hiện tượng và lịch sử, đức Phật chỉ đản sinh vào một thời điểm, một nơi chốn nhất định nào đó trên thế giới này. Thời điểm và nơi chốn ấy là vào năm 624 trước tây lịch tại vương quốc Kapilavastu mà ngày nay là Nepal, phía tây bắc Ấn Độ. Trên bình diện bản thể, Phật là tánh giác của tất cả hữu tình chúng sinh. Vì vậy, bất cứ khi nào chúng sinh nghĩ về Phật thì Phật thị hiện ở đó. Nói như vậy không có nghĩa là Phật tính có sinh có diệt mà do tâm chúng sinh có sinh diệt nên Phật có lúc hiện lúc ẩn. Do đó, người Phật tử thường nghĩ nhớ đến Phật thì Phật thường có mặt với họ. Thường ngày, con người nghĩ tưởng đến Phật qua nhiều cơ duyên khác nhau, không ai giống ai. Có người thường ngày hành trì niệm Phật, nên nhớ đến Phật thường xuyên. Có người khi có dịp đến chùa hay gặp chư tăng, ni thì nhớ đến Phật. Có người ban đêm, trong giấc mơ chẳng lành, sợ hãi, bỗng nhiên tiềm thức nhớ Phật, niệm Phật, tỉnh giấc mới biết mình bị ác mộng. Có người khi gặp hoàn cảnh đau khổ tột cùng không biết làm gì để thoát khổ nên nghĩ nhớ đến Phật, niệm Phật. Có người gặp lúc cực kỳ may mắn phước lộc tràn đầy không biết làm sao cảm tạ bèn nghĩ (tiếp trang 4) LỄ HỘI PHẬT ĐẢN 2009 TẠI ANAHEIM CONVENTION CENTER, trang 11

2 Nguyện cầu Phật Đản KỶ NIỆM NGÀY PHẬT ĐẢN NHỚ LỜI PHẬT DẠY Thích Nguyên Siêu Ngày Phật Đản chúng con xin cầu nguyện Đấng Từ Bi đuốc tuệ tỏa mười phương Cho chúng sanh nương vi diệu pháp vương Thoát biển khổ trong ba đường sáu nẻo Ngày Phật Đản chúng con xin cầu nguyện Đấng Cha Lành dung ruổi nhủ lòng thương Cho chúng sanh nương con thuyền thanh lương Vượt đại hải, hồi đầu reo bỉ ngạn Ngày Phật Đản chúng con xin cầu nguyện Mọi chúng sanh thắp đuốc lên mà đi Cảnh trầm luân đừng lưu luyến làm gì Đường Tứ Thánh thênh thang cùng tiến bước Ngày Phật Đản chúng con xin cầu nguyện Mọi chúng sanh mau thức tỉnh lầm mê Cõi Lạc Bang, nương ánh đạo dắt về Căn nhà cũ, đã từ lâu xa vắng Ngày Phật Đản, chúng con xin cầu nguyện Hoa Vô Ưu thơm ngát tỏa muôn phương Đạo Từ Bi trang trải vạn con đường Khắp pháp giới không còn nơi tăm tối Thành Ca Tỳ La, tưng bừng mở hội Vườn Lâm Tỳ Ni, mừng Phật Đản Sanh Bồ đề đạo tràng, chứng đắc vô sanh Rừng Câu Thi La, pháp thân bất diệt Khấn nguyền Phật Đản, pháp âm bất tuyệt Tứ sanh cửu hữu, đồng đẳng quay về Hoa tạng huyền môn, một bước Tào Khê Chấm dứt vạn duyên, du thuyền bát nhã. Tháng MẶC GIANG (tiếp theo trang 1) dù là sinh vật bò, bay, máy, cựa cho đến chư Thiên và nhân loại đều được tôn trọng, thương yêu: Just as a mother would protect her only child at the risk of her own life, even so let him cultivate a boundless heart towards all beings. (The Buddha and His Teachings, Mettà Sutta, Loving – Kindness. P. 696) Cũng như bà từ mẫu hết lòng bảo bọc đứa con duy nhất của bà dẫu có hiểm nguy đến tánh mạng, cũng thế ấy, người kia trau dồi từ tâm vô lượng vô biên, bao trùm tất cả mọi chúng sanh. (Ðức Phật và Phật pháp, Kinh Từ Bi Lòng Từ Bi là sức sống chân thật. Là tình yêu thương cần có để nuôi lớn con người. Lòng Từ Bi ấy được diễn đạt qua đời sống hằng ngày: qua lời nói, thái độ, cung cách cư xử với nhau. Chính nhờ lòng Từ Bi này mà hận thù được xóa sạch. Lòng độ lượng, tánh khoan dung được đơm chồi nảy lộc, đơm bông kết trái thương yêu: Let none deceive another nor despise any person whatsoever in any place. In anger on ill-will let him not wish any harm to another. Không ai làm cho ai thất vọng, không ai khinh bỉ ai, dẫu người như thế nào hoặc ở nơi đâu. Trong cơn giận dữ hay lúc oán hờn, không nên mong điều bất hạnh đến với người khác. (sđd) Lòng không chất chứa hận thù, thì tấm lòng ấy trong sạch, tinh khiết như đóa hoa sen trắng vươn lên giữa đám bùn lầy ô nhiễm. Lòng không đố kỵ, tỵ hiềm thì tấm lòng ấy thanh thản, thong dong như mây ngàn bềnh bồng giữa hư không lồng lộng. Lòng không ghét bỏ hủy nhục, thì tấm lòng ấy khoáng đạt, xanh mát, bao la như biển cả làm đẹp cuộc đời, như bức tranh thủy mạc thiên nhiên của tạo hóa. Ðó đây lòng Từ Bi, ý yêu thương được tạo dựng, bồi đắp, là giá trị sống được thăng hoa muôn thuở: Let his thoughts of boundless love pervade the whole world – above, below and across – without any obstruction, without any hatred, without any enmity. Hãy rải những tư tưởng từ ái vô biên cùng khắp toàn thể thế gian: bên trên, bên dưới, bốn phương tám hướng, không để cho điều gì làm trở ngại, không mảy may nóng giận, không chút hiềm thù. (sđd) Ngày Phật đản sinh, chúng ta nhớ lời Phật day như nhớ sự đói phải ăn, khát phải uống, như buồn ngủ phải ngủ và ước vọng sinh tồn được bảo trì như bản năng của muôn loài sinh động vật. Nhớ lời Phật dạy để được lợi ích cho mình, lợi ích cho tha nhân, và lợi ích cho cả hai, mà từ thuở sơ sinh cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay theo cuộc vô thường: Việc ác làm ra Mà chưa chín mùi Thì người làm ác Có thể gặp hay. Việc ác chín mùi, Thì người làm ác Phải chịu khốn khổ. (Pháp Cú 120) Việc lành làm ra Mà chưa chín mùi, Thì người làm lành Có thể gặp dở Việc lành chính mùi, Thì người làm lành Ðược hưởng an vui. (Pháp Cú 121) Lời Phật dạy tạo sự bình an và hạnh phúc cho người có cuộc sống bình thường giữa xã hội ồn ào, huyên náo. Chính sự bình an, hạnh phúc đó là giá trị sống đích thực, cao quý. Lời Phật dạy tạo sự hướng thượng, tu chứng cho những người đem tâm tu hành, giải thoát. Y cứ vào lời Phật dạy mà kẻ phàm phu thành thánh giả. Lời Phật dạy rõ ràng, trong sáng, minh nhiên như ánh sáng mặt trời, chiếu soi khắp trên mặt đất làm sống dậy từ loại cỏ cây, sỏi đá, cho đến các loài có cánh để bay, có chân để chạy, có mình để trườn, có vảy để bơi và có thân để lăn lóc cựa quậy… Chúng ta hãy tĩnh tâm chiêm nghiệm lời Phật day: Dễ thay, tìm thấy lỗi người! Khó thay, tự thấy lỗi mình! Lỗi người thì mình cố phanh phui ra như là sàng gạo, mà lấy trấu cám! Lỗi mình thì mình cố che dấu đi, như kẻ bẫy chim, Ngụy trang mà núp. (Pháp Cú sđd) Thế giới này được tạo thành như là tác phẩm của lòng minh. Tâm mình nghĩ thiện, tạo thành thế giới thiện. Lòng mình nghĩ ác tạo thành thế giới ác. Lòng thiện và thế giới thiện là phước báu của con người. Còn lòng ác và thế giới ác là điều bất hạnh cho hết thảy chúng sinh. Mong cho lòng mình, cầu nguyện cho lòng người, tất cả đều nghĩ thiện để xây dựng một thế giới thiện. We are what we think. All that we are arises with our thoughts. With our thoughts, we make the world. (Heart of a Buddha) Kỷ niệm ngày Ðức Phật đản sinh, chúng ta nhớ lại lời Ðức Phật dạy trong một tâm thức trong sáng, trong một ý tưởng mẫn tiệp, và trong một tư duy tinh khiết để làm đẹp cuộc đời, mà cúng dường lên đấng Thế Tôn. Mùa Phật Ðản – PL 2553 Thích Nguyên Siêu Trang 2 SỐ RA MẮT

3 Hân hoan kính mừng Phật Đản CỘNG ÐỒNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM MIỀN NAM CALIFORNIA BAN TỔ CHỨC ÐẠI LỄ PHẬT ÐẢN PHẬT LỊCH 2553 HÌNH ẢNH BUỔI HỌP VỀ LỄ HỘI PHẬT ĐẢN PL (2009) CỦA CỘNG ĐỒNG PHẬT GIÁO NAM CALIFORNIA, TẠI CHÙA LIÊN HOA, NGÀY THÔNG BÁO VỀ LỄ HỘI PHẬT ĐẢN PL 2553 Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Trân trọng kính thông báo đến chư Tôn Ðức Tăng Ni, cùng toàn thể quý Ðồng hương, Ðồng bào Phật tử: Ðể tỏ lòng thành kính, tưởng niệm ngày đức Phật đản sinh mang nhiều ý nghĩa thiêng liêng cao quý mà toàn thể Tăng tín đồ Phật tử trên thế giới đều hân hoan chào mừng ngày lịch sử trọng đại này. Chương trình Ðại Lễ Phật Ðản miền Nam California năm nay được tổ chức tại Anaheim Convention Center hội trường Arena Ðịa chỉ: 800 W. Katella Ave., Anaheim, Cali Vào lúc: 02:00 chiều đến 11:00 tối thứ Bảy, ngày 6 tháng 6 năm 2009 Thay mặt Ban Tổ Chức, thành tâm kính mời quý Ðồng hương, đồng bào Phật tử hoan hỷ tham dự Ðại Lễ Phật Ðản nói trên, để cùng góp phần cầu nguyện cho quê hương Việt Nam thực sự được tự do, dân chủ và cộng đồng nhân loại trên thế giới được thanh bình, phúc lợi. Mọi chi tiết xin vui lòng liên lạc điện thoại: (714) Kính chúc quý Ðồng hương, Phật tử vô lượng an khang, cát tường như ý. Santa Ana, ngày 06 tháng 03 năm 2009 Trưởng Ban Tổ Chức, Sa Môn Thích Chơn Thành CHÁNH PHÁP Trang 3

4 (tiếp theo trang 1) đến ân đức của Phật, niệm Phật. Nhiều, nhiều lắm, có vô số trường hợp nghĩ nhớ đến Phật khác nhau tùy theo cơ duyên mỗi người. Nhưng, có một cơ duyên xảy ra hàng năm mà người Phật tử nào cũng nghĩ nhớ đến Phật, đó là ngày đản sinh của ngài. Năm nay, ngày đản sinh của đức Phật đến trong bối cảnh bất an về kinh tế lan rộng khắp toàn cầu. Các thông tin cho thấy tình trạng thất nghiệp trên thế giới đang lên cao chưa từng có và sẽ còn tiếp tục gia tăng. Liên Hiệp Quốc báo động chỉ trong năm nay không thôi số người thất nghiệp trên thế giới sẽ lên tới 40 triệu. Cộng chung với số người đang thất nghiệp, thế giới hiện có khoảng 200 triệu người không có việc làm. Trong số những người còn đang làm việc trên thế giới, có khoảng 20% chỉ kiếm được $1.25 đô la một ngày, và khoảng 40% người lao động chỉ đem được về nhà $2 đô la một ngày. Tình trạng này khiến gây nên nạn thiếu dinh dưỡng và đói khát triền miên trên hành tinh này. Cơ quan Liên Hiệp Quốc phúc trình cho biết trên thế giới hiện có 963 triệu người bị đói kinh niên và mỗi ngày có khoảng 16,000 trẻ em chết vì đói và thiếu dinh dưỡng. Tác động của cơn khủng hoảng kinh tế và tài chánh toàn cầu hiện nay đã lan rộng khắp nơi và không chừa một quốc gia, một khu vực nào trên thế giới, từ Mỹ Châu đến Âu Châu, từ Phi Châu đến Á Châu. Không phải chỉ có những ai đang bị thất nghiệp và làm ăn thua lỗ mới lo lắng, phiền muộn, những người đang còn làm việc, những thương gia đang còn hoạt động cũng không yên tâm, không biết ngày mai sẽ ra sao! Mọi người đều lo âu. Nỗi lo bên trong được gia thêm với hoàn cảnh bất an bên ngoài xã hội sẽ làm cho cuộc sống con người trở nên đầy bất trắc và đau khổ. Chưa hết, lòng tham lam, thù hận và si mê của con người khiến họ có những ý tưởng, ngôn ngữ và hành động làm tổn hại nghiêm trọng đến những người chung quanh, đến cả nhân loại. Trong số những tác động gây Trang 4 TƯỞNG NIỆM NGÀY SINH CỦA ĐỨC PHẬT GIỮA CƠN KHỦNG HOẢNG HIỆN NAY Huỳnh Kim Quang đau khổ cho nhân quần xã hội mà con người đã và đang chứng kiến có nạn cuồng tín và kỳ thị tôn giáo, nạn độc tài và tham nhũng của các cơ chế chính trị ở cấp quốc gia, nạn đầu cơ tích trữ trong giới thương nghiệp, nạn buôn bán người trong và ngoài lãnh thổ của nhiều nước, nạn bạo hành trong gia đình và ngoài xã hội, nạn phe phái, chủ nghĩa và ý thức hệ kéo dài hàng nhiều thập niên qua nhiều lãnh địa quốc gia, nạn chà đạp lên quyền sống và quyền làm người của kẻ khác, nạn tham vọng bá quyền xâm chiếm biên cương đất đai và lãnh hải của lân bang, v.v Còn nữa, trong cuộc cạnh tranh sinh tồn, để đáp ứng với những nhu cầu phát triển về mặt dân số cũng như về mặt tiến bộ trong các lãnh vực kinh tế, khoa học, chính trị và quân sự, con người bất chấp đến hậu quả đã không ngừng khai thác đất đai, dầu mỏ, đào phá rừng, săn bắn thú rừng và đánh bắt các loài cá, chế tạo vũ khí nguyên tử, hóa học và vi trùng. Kết quả là trái đất ngày càng cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, khí thải nhà kính gây thay đổi trầm trọng khí hậu toàn cầu khiến thiên tai xảy ra thường xuyên, mực nước biển dâng cao xâm thực đất sinh sống, nạn sa mạc hóa ngày càng lan rộng, nhiều loại thú rừng và cá đã và đang trên đà diệt chủng, mối đe dọa thường trực đối với sinh mạng con người vì các loại vũ khí độc hại, v.v Tất cả những tác hại vừa nêu trên không phải là ảo ảnh mơ hồ mà là các hiện tượng có thật đã và đang xảy ra hàng ngày trên thế giới này. Vì vậy, đó không phải là những sản phẩm tưởng tượng của người viết cố ý bôi đen hình ảnh của thế giới hay tô đậm nét bi quan, tiêu cực về cuộc đời. Đó là sự thật. Sự thật về khổ mà đức Phật đã từng dạy trong những bài Pháp lúc Ngài còn tại thế. Sống trong bối cảnh xã hội và cuộc đời như vậy, người Phật tử, khi tưởng niệm ngày đản sinh của đức Phật, có thể chiêm nghiệm được điều gì để mang lại lợi lạc cho mình và cho người hầu giải thoát một phần nào những khổ đau trầm thống đang đè nặng lên thân phận con người? Trước hết, mọi người Phật tử đều biết rằng đức Phật ra đời vì để giải khổ cho mình và cho chúng sinh. Chính vì vậy, trong suốt gần năm mươi năm, đức Phật đã không ngừng vân du đó đây để chỉ dạy con đường giác ngộ và giải thoát. Trong phương thức giáo hóa, đức Phật luôn luôn dựa trên thực trạng của xã hội, căn cơ hoàn cảnh của mỗi người mà đưa ra các phương thức diệt khổ và sống an lạc không những trong đời này mà còn trong những đời sau. Vì lẽ đó, đức Phật không đề cập đến những vấn đề siêu hình và thuần lý mà ngài dạy con người quán chiếu vào thực tại để nhận chân sự thật, dù sự thật mang bất cứ vóc dáng nào, rồi từ đó chấm dứt các nguyên nhân gây ra phiền não và khổ đau để đạt đến an lạc và giải thoát. Nhìn nhận sự thật là bước đầu tiên và cũng là cuối cùng cần phải thực hiện nếu muốn diệt khổ. Trong sự thật này bao hàm bốn dạng thức nền tảng: sự thật về khổ, sự thật về nguyên nhân gây ra khổ, sự thật về trạng thái hết khổ sau khi thực nghiệm sự thật về con đường diệt khổ. Bốn sự thật này vốn nằm trong luật tắc nhân quả và duyên khởi mà bất cứ người nào cũng có thể nhận biết vì nó phù hợp với các hiện tượng xảy ra thường trực trong đời sống, trong vũ trụ, và vì nó là các nguyên lý nhận thức phổ quát mà con người vốn có. Trong ý nghĩa đó, người Phật tử có thể ứng dụng các sự thật này vào trong đời sống hiện thực hằng ngày để giảm trừ khổ đau. Bây giờ xin đi sâu vào các chi tiết ứng dụng lời Phật dạy để học làm sao sống bình thản và an lạc giữa cuộc đời phiền tạp. Phiền não, buồn phiền, phiền nhiễu, bất xứng ý, không vừa lòng, bất mãn, khổ đau, v.v là những hiện tượng xảy ra thường xuyên trong đời sống con người, dù con người ở giai tầng, ở bối cảnh xã hội nào, hay dù con người sống ở thời đại nào, thậm chí dù con người ở lớp tuổi nào. Đây là sự thật. Nếu chúng ta không thừa nhận, hay nếu chúng ta tìm cánh lẩn tránh nó thì vấn đề sẽ càng nhiêu khê và phiền phức hơn. Chính vì tìm cách tránh né khổ đau, con người lại càng cảm thấy mình bị áp lực, bị vây hãm, bị tấn công mạnh hơn bởi khổ đau. Tại sao? Bởi vì thái độ không nhìn nhận sự thật khổ đau là hành vi, là nguyên nhân tạo ra khổ đau khác. Khi con người tránh né khổ đau, họ sẽ không có cơ hội để trui luyện khả năng đối đầu với khổ đau, nhưng họ lại không có cách nào hữu hiệu để diệt sạch khổ đau, cho nên khổ đau vẫn tiếp tục xuất hiện, và họ lại càng cảm thấy bị quấy rầy vì khổ đau. Giống như, một người đang làm việc trong một công ty mà công ty này đang gặp phải khó khăn về tài chánh, không biết sẽ phải sa thải một số công nhân vào lúc nào. Người đó mỗi ngày đến sở làm đều nghĩ và lo lắng về chuyện có thể mình sẽ bị cho nghỉ việc. Chuyện cho nghỉ việc thì chưa đến, mà cũng có thể là sẽ không đến với cá nhân người đó, nhưng anh/chị này vẫn cứ lo, lo rồi sợ, sợ rồi muốn trốn tránh chuyện mình sẽ bị sa thải, cho nên mỗi ngày đều mong là mình sẽ không phải là người bị cho nghỉ việc. Tâm trạng này cứ đeo đuổi người đó mãi, không biết bao giờ mới chấm dứt, trừ phi công ty tuyên bố rằng sẽ không cho ai nghỉ việc cả, nhưng thực tế công ty không thể chắc là có thể vượt qua được khó khăn hay không mà dám tuyên bố như vậy. Ở đây cái khổ của người đó là không nhìn nhận vào sự thật. Sự thật gì? Sự thật là hiện tại công ty vẫn chưa sa thải anh/chị này. Sự thật là đến khi công ty có quyết định sa thải thì anh/chị này cũng không có cách nào để trốn tránh. Sống trong lo sợ như vậy, người công nhân đó sẽ không thể tìm được an lạc trong đời sống hằng ngày. Trong trường hợp trên, nỗi lo sợ làm cho người đó khổ đau. Nỗi lo sợ xảy ra là khi một điều gì đó chưa thật sự đến, có nghĩa là đó chỉ là một sự kiện không thật trong hiện tại, nó chỉ là một sản phẩm do con người thêu dệt ra. Điều này đã được đức Phật dạy trong Tâm Kinh Bát Nhã là điên đảo mộng tưởng. Một người biết nhìn nhận sự thật sẽ không mộng tưởng. Như người công nhân nói trên, nếu biết nhìn nhận sự thật thì sẽ không có chuyện phải lo lắng mỗi ngày về một sự kiện chưa xảy ra hay có thể chẳng bao giờ xảy ra đối với người đó. Cái khổ ở đây là do mộng tưởng, không phải do hiện thực. (tiếp trang 23) SỐ RA MẮT

5 Phật Ngọc cho nền hòa bình thế giới Thích Nguyên Tạng Phật Ngọc cho Hòa Bình Thế Giới được xem là pho tượng lớn nhất và trang nghiêm nhất trên thế giới hiện nay được điêu khắc từ tảng ngọc thạch. Tượng Phật (kể cả pháp tòa và đài sen) có chiều cao 3 mét 5. Với chiều kích và vẻ đẹp của tôn tượng, Phật Ngọc này được vinh danh là kỳ quan của thế giới hiện nay. Tượng Phật Thích Ca được tôn thờ bên trong Bảo Tháp Đại Giác Ngộ ở Bồ Đề Đạo Tràng (Ấn Độ) được chọn làm khuôn mẫu cho Phật Ngọc Hòa Bình Thế Giới này, đơn giản vì pho tượng ở Bồ Đề Đạo Tràng là hình ảnh quen thuộc của hàng triệu đệ tử Phật trên khắp thế giới. Hiệp Hội Đại Bồ Đề đã cho phép nghiên cứu chụp hình một cách chi tiết tỉ mỉ pho tượng. Các nhà điêu khắc và tạc tượng ở Thái Lan đã dựa vào các hình ảnh chụp ấy để tôn tạo Phật Ngọc này. Giá trị của pho tượng Phật Ngọc: Được chiêm bái và đảnh lễ tượng Phật được tạo ra từ một loại ngọc quý hiếm là một duyên lành khó có được trong cuộc đời này. Đức Phật đã từng đề cập điều này trong Kinh Thủ Ấn Tăng Tín Lực rằng: Chỉ một phút giây ngắn ngủi chiêm ngưỡng Phật tượng, hành giả ấy đã được vô lượng công đức rồi, huống chi người ấy được đối trước Phật tượng mà lễ bái, cúng dường, thì công đức còn nhiều hơn gấp bội. Hành Trình của Tượng Phật Ngọc Tháng 12, 2006 Vận chuyển khối ngọc Polar Pride từ Vancouver đến Bangkok Tháng 05, 2007 Mô hình đầu tiên được Lama Zopa Rinpoche điều chỉnh Cuối 2007 Mô hình thứ hai được Lama Zopa Rinpoche điều chỉnh Cuối 2007 Mô hình thứ ba được Jonathon Partridge điều chỉnh Đầu 2008 Mô hình thứ tư được chấp thuận Đầu 2008 Jade Thongtavee bắt đầu khắc tượng Tháng 06, 2008 Hoàn tất công trình khắc tượng Tháng 07, 2008 Hoàn tất công trình đánh bóng tượng Tháng 12, 2008 Hoàn tất nghi lễ chú nguyện Đầu năm 2009 Chương trình triển lãm bắt đầu Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới Tượng Phật trong Bảo Tháp Đại Bồ Đề ở Bồ Đề Đạo Tràng (Ấn Độ) được chọn làm mẫu tượng cho Phật Ngọc Tượng Phật uy nghi bắt ấn xúc địa (xem hình bên phải), ngài Lama Zopa Rinpoche chọn mẫu tượng này vì đây là hình ảnh quen thuộc của đức Phật trong lòng Phật tử ở khắp mọi nơi. Ban điều hành chùa Bồ Đề Đạo Tràng đặc biệt cho phép chụp nhiều hình ảnh ghi lại mọi chi tiết tỉ mỉ của tượng Phật để mang về cho các nhà khắc ngọc dựng mẫu tượng. Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới sẽ là một trong những pho tượng lớn nhất và uy nghi nhất được tạc trong ngọc quí. Đức Phật gồm cả đài sen và pháp tòa sẽ cao gần 3.5 thước tây (11.4 feet). Phật Ngọc được tạc từ khối ngọc thạch vĩ đại mang tên Polar Pride. Đây là một kỳ quan của thế giới. Ngài Lama Zopa Rinpoche nói rằng, Phật Ngọc sẽ thắp sáng toàn cõi thế gian, sẽ mang niềm an lạc hạnh phúc không thể nghĩ bàn, góp phần ngăn chận những cuộc hủy hại tàn phá đang xảy ra khắp nơi, kể cả nạn chiến tranh. Tượng Phật ở Bảo Tháp Đại Bồ Đề (Mahabodhi Stupa), Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn độ, được chọn làm mẫu cho Phật Ngọc. Mẫu hình này được chọn vì đây là hình ảnh quen thuộc của đức Phật trong lòng Phật tử ở khắp mọi nơi. Polar Pride Sâu thẳm trong lòng miền Bắc Gia Nã Đại, dưới bóng rặng núi British Columbian là nền đá ngọc thạch. Ở đây, giữa những đồi cỏ xanh tươi đầy hoa dại, đá ngọc thạch nằm với trọn vẻ trang nghiêm. Được khám phá đầu tiên vào thập niên 60 và 70, nền đá ngọc thạch này được xem là nền ngọc lớn nhất trên thế giới. Vào cuối năm thập niên 90 xảy ra một điều bất ngờ. Người ta tìm thấy ở phía Nam biên giới Yokon một nền ngọc thạch với màu xanh rực rỡ sáng đẹp chưa từng thấy ở các tảng ngọc thạch được tìm thấy trước đây. Lấy bối cảnh đặt tên, nền ngọc này được gọi là “Ngọc Bắc Cực” (Polar Jade). Các nhà nghiên cứu khoa học cho biết loại ngọc này cứng chắc hơn bất cứ loại ngọc thạch Nephrite nào khác. Màu ngọc sáng bóng, chất lượng được đánh giá là loại ngọc quí dùng làm nữ trang. Trong thế giới tâm linh, người ta thường tin rằng ngọc thạch chứa đựng nguồn năng lực linh thiêng phi thường. Những tác phẩm điêu khắc bằng ngọc thạch thường được thế giới đánh giá cao. Thật sự Ngọc Bắc Cực đã thay đổi cách nhìn của cả thế giới về ngọc thạch Nephrite. Vào năm 2000, người ta tìm thấy một khối ngọc khiến cho toàn thế giới kinh ngạc. Khối ngọc này vĩ đại chưa từng thấy, hoàn toàn không tì vết, phẩm lượng đá quí Ngọc Bắc Cực. Khối ngọc nặng 18 tấn được gọi tên là Polar Pride, nghĩa là “niềm Kiêu Hãnh của Bắc Cực”. Khối ngọc này được một nhà nghiên cứu đá quí lừng danh thế giới, ông Fred Ward, đánh giá là “khám phá của thiên niên kỷ”. Sau khi khối ngọc Polar Pride được tìm thấy, người ta hỏi ông Kirk Makepeace, giám đốc công ty khai thác ngọc rằng ông sẽ làm gì với khối ngọc này. Tôi sẽ để thế giới quyết định, ông ta trả lời, (tiếp trang 17) Tôn tượng tại Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ Đạo Hữu Ian Green, giám đốc công trình Phật Ngọc Đạo Hữu Ian Green, giám đốc công trình Phật Ngọc đã đến tận địa điểm mỏ Ngọc ở miền Bắc Canada để tìm kiếm Ngọc để khắc tượng Phật CHÁNH PHÁP Trang 5

6 ĐỨC PHẬT Tác giả: Narada Thera Dịch giả: HT. Thích Trí Chơn (tiếp theo trang 1) 29 tuổi, thái tử từ bỏ mọi dục lạc trần gian, để đắp lên mình mảnh y vàng giản dị của nhà tu khổ hạnh, một mình, không một đồng dính túi, lang thang đây đó để đi tìm Chân Lý và sự An Lạc. Ðó là một cuộc từ bỏ lịch sử vô tiền khoáng hậu, vì thái tử đã đi tu không phải lúc tuổi về già, mà là đang độ thanh xuân; không phải trong cảnh nghèo khổ mà là giàu sang. Như thời xưa người ta tin tưởng rằng không có sự giải thoát nào có thể đạt tới, trừ phi con người sống một đời sống hết sức khắc khổ, thái tử cũng đã áp dụng liên tục mọi hình thức tu hành cực kỳ khổ hạnh. Thái tử đã thực hiện một nỗ lực phi thường trong suốt sáu năm trường. Thân hình thái tử gầy ốm đến chỉ còn một bộ xương. Thái tử càng hành hạ xác thân bao nhiêu thì mục tiêu (giải thoát) càng xa người ấy bấy nhiêu. Những sự khổ hạnh cực nhọc và không kết quả mà thái tử thực hành liên tục đã tỏ ra hoàn toàn vô ích. Thái tử bây giờ nhận thức được trọn vẹn qua kinh nghiệm bản thân, về sự quá vô ích của hành động ép xác, đã làm gầy yếu thân thể và gây nên sự sút kém tinh thần. Do lợi ích (có được) từ kinh nghiệm vô giá này của mình, thái tử cuối cùng đã quyết định theo con đường độc lập, tránh cả hai cực đoan của sự quá dục lạc và quá ép xác. Ðiều trước làm trì chậm sự tiến bộ tinh thần và điều sau làm giảm sút trí tuệ của hành giả. Con đường mới Ngài tự mình tìm ra là Trung Ðạo mà sau này đã trở thành một trong những đặc tính nổi bật ở giáo lý của Ngài. Một buổi mai an lành, trong lúc Ngài đang chú tâm thiền định, không được sự giúp đỡ và chỉ dẫn của bất cứ siêu lực nào; duy nhất chỉ dựa vào nỗ lực và trí tuệ của mình, Ngài đã đoạn diệt tất cả phiền não, thân tâm thanh tịnh, quan sát sự vật đúng như thật, và chứng đạo Giác Ngộ (thành Phật), vào lúc tròn 35 tuổi. Lúc mới sinh ra, Ngài không phải là một vị Phật, nhưng Ngài đã thành Phật do nỗ lực tu tập của chính Ngài. Như sự hiện thân hoàn toàn của những đức hạnh mà đức Phật đã thuyết dạy, vốn sẵn có trí tuệ sâu xa, cùng với lòng từ bi bao la, Ngài đãùng quãng đời quý báu còn lại của mình, để phục vụ cho nhân loại, cả bằng (hành động) gương mẫu cũng như lời giáo huấn, không bị chi phối bởi lý do cá nhân nào khác. Sau 45 năm trường thành công giáo hóa, đức Phật, như tất cả mọi người,không chống lại được luật vô thường tàn ác, và cuối cùng (trước khi) nhập diệt vào năm 80 tuổi, Ngài đã khuyên hàng đệ tử hãy nhận đem giáo pháp của Ngài làm thầy. Ðức Phật là một người như chúng ta, Ngài sinh ra là một người, sống như một người, và đã từ giã cõi đời như một người. Mặc dù là con người, Ngài đã trở thành một nhân vật siêu phàm, nhưng Ngài không bao giờ tự nhận cho mình là Thần linh. Ðức Phật đã nhấn mạnh vào điểm quan trọng này, và đã không lưu lại một điều gì để bất cứ ai có thể nhầm lẫn nghĩ rằng Ngài là một Thần linh bất tử. May mắn là không có sự thần thánh hóa trong trường hợp của đức Phật. Tuy nhiên, tưởng nên ghi nhận rằng không có một vị giáo chủ nào thật là vô thần như đức Phật, nhưng cũng không có ai có đặc tính thần linh như Ngài. Ðức Phật không phải là hóa thân của vị thần Vishnu (3) của Ấn Ðộ giáo, như một số người tin tưởng, Ngài cũng chẳng phải là đấng Cứu Thế mà (có thể) tự ý cứu rỗi những kẻ khác bằng sự giải thoát của cá nhân Ngài. Ðức Phật khuyên dạy các đệ tử của Ngài hãy nương tựa vào chính họ để tìm giải thoát, vì cả hai sự thanh tịnh hay nhiễm ô (phiền não) đều tùy thuộc ở chính mình. Ðể làm sáng tỏ sự tương quan giữa Ngài với các đệ tử cũng như nhấn mạnh đến điều trọng yếu của đức tính tự tin và nỗ lực cá nhân, đức Phật đã dạy một cách rõ ràng là: Các con nên tự mình cố gắng, còn các đức Như Lai (Tathagatas) chỉ là những bậc Thầy. Ðức Phật chỉ rõ con đường và dành cho chúng ta tự ý đi theo con đường đó để đạt tới sự thanh tịnh (giải thoát). Nương vào kẻ khác để tìm sự giải thoát là tiêu cực, nhưng dựa vào chính mình là tích cực. Trông cậy vào người khác có nghĩa là đầu hàng trước nỗ lực của chính mình. Nhằm khuyên các đệ tử của Ngài nên biết tự chủ, đức Phật đã dạy trong kinh Bát Niết Bàn (Parinibbana Sutta) như sau: Hãy làm những hòn đảo cho chính các ngươi, hay làm nột nơi ẩn náu cho chính các ngươi, đừng tìm chốn nương tựa nào ở kẻ khác. Những lời dạy ý nghĩa này là một sự đề cao con người. Ðiều ấy cho thấy sự tự cố gắng để thành đạt mục đích của mình là cần yếu như thế nào, cũng như nông nổi và vô ích ra sao khi (chúng ta) tìm sự giải thoát qua các đấng cứu rỗi có từ tâm; cùng mong cầu hạnh phúc hão huyền ở kiếp sau qua sự chuộc tội của các thần linh tưởng tượng, hoặc do sự lặng lẽ cầu nguyện và những cuộc tế lễ vô nghĩa. Hơn nữa, đức Phật không giành độc quyền Giác Ngộ (Buddhahood), mà thật vậy, đó không phải là đặc quyền của bất cứ nhân vật đặc biệt nào. Ngài đã đạt tới cái quả vị khả hữu cao nhất của sự toàn thiện mà bất cứ người nào cũng có thể ước mong, và không có tâm ích kỷ của một bậc thầy, Ngài đã chỉ bày con đường đạo chân chính để dẫn đưa (chúng ta) tới đích. Theo giáo lý của đức Phật, ai cũng có thể mong cầu cái quả vị tối thắng của sự toàn thiện đó, nếu họ thực hiện được một sự cố gắng cần thiết. Ðức Phật không lên án mọi người bằng cách xem họ như những kẻ tội lỗi xấu xa; nhưng trái lại, Ngài đã cho họ niềm vui, khi dạy rằng bản tâm họ vốn là thanh tịnh. Theo quan niệm của đức Phật,thế giới (con người) không độc ác, nhưng thế giới ấy đã bị lầm lạc bởi vô minh. Thay vì làm chán nản các đệ tử của Ngài, và dành riêng địa vị cao quý ấy cho chính mình, đức Phật đã khuyến khích và khuyên họ noi gương Ngài, vì sự Giác Ngộ tiềm ẩn nơi mọi người. Nói cách khác, tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật. (còn tiếp một kỳ) Ðức Phật là một người như chúng ta, Ngài sinh ra là một người, sống như một người, và đã từ giã cõi đời như một người. Mặc dù là con người, Ngài đã trở thành một nhân vật siêu phàm, nhưng Ngài không bao giờ tự nhận cho mình là Thần linh. Ðức Phật đã nhấn mạnh vào điểm quan trọng này, và đã không lưu lại một điều gì để bất cứ ai có thể nhầm lẫn nghĩ rằng Ngài là một Thần linh bất tử. Trang 6 SỐ RA MẮT

9 LỄ HỘI PHẬT ÐẢN VÌ HÒA BÌNH và DÂN CHỦ Ngày Ðức Phật Ðản sinh là ngày đánh dấu một thời điểm lịch sử trọng đại của nhân loại, của pháp giới chúng sinh; ngày mà tinh thần nô lệ giai cấp bất công giữa người với người được công nhiên xóa bỏ, vì con người ai cũng có dòng máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn, chớ có áp bức, chớ có phân chia vì tình thương người rất cần cho sự sống. Ngày Đức Phật Đản sinh cũng là ngày mà tự do, bình đẳng trên tinh thần tu tập, chứng đắc, của con người được tôn vinh trên hoàn vũ, vì rằng tất cả chúng sinh đều có tánh làm Phật, ai nỗ lực tinh tấn hành trì điều thiện, tích tập hạnh lành và thăng hoa đời mình được nhiều tịnh lạc thì tất cả đều được chuyển mê khai ngộ, chuyển phàm thành thánh. Ý nghĩa Đản sinh cũng được hiểu như là mục đích có mặt của Ðức Phật trên thế gian này, đó là, tuyên thuyết tường tận về nguyên nhân và hậu quả của sự khổ đau và đạo lộ tu tập để đạt đến giải thoát giác ngộ qua giáo pháp Bát Chánh Ðạo. Và, ngày Đản sinh cũng là ngày mà bức Thông Ðiệp Hòa Bình được tuyên đọc trên đỉnh Hy Mã Lạp Sơn: Hãy tôn trọng sự sống của con người, sự sống của tất cả muôn loài. Tất cả sự sống ấy chớ giết, chớ bảo giết, mà hãy mở rộng tấm lòng độ lượng, đôi tay tha thứ và trái tim nồng ấm vị tha để nuôi dưỡng, trưởng thành trong ý vị thương yêu. Chúng ta, người con Phật, kính mừng ngày Ðức Phật Ðản sinh trong không khí huy hoàng, trang nghiêm trọng thể nơi đây, thì chúng ta đồng lúc thành tâm hướng vọng về quê hương góp phần cầu nguyện cho dân tộc Việt Nam thân yêu được thực sự an lành, hạnh phúc, cho giang sơn gấm vóc được vẹn toàn lãnh thổ và đạo Phật Việt được xiển dương, thăng hoa trên dòng sử mệnh quê hương để làm chất liệu, tài bồi trong công cuôc hộ quốc an dân, thanh bình và dân chủ. Chúng ta hãy nhất tâm nguyện cầu cho thế giới được hòa bình, chúng sinh được an lạc trong giá trị cao quý của lòng từ bi và ánh sáng trí tuệ của bậc Ðại Giác Thế Tôn. Kỷ niệm ngày Phật Ðản trong phương châm Hòa Bình và Dân Chủ, chúng ta nhất tâm tưởng nhớ lời Phật dạy: Vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc của chư Thiên và nhân loại, các thầy hãy đi giáo hóa, đi vì hạnh phúc muôn nơi và muôn loài, đi để gieo rắc hương vị giải thoát đến khắp mọi nẻo đường, không phân biệt giàu nghèo sang hèn, vua chúa hay quần chúng bình dân… Các thầy hãy lên đường bằng hành trang của người hóa độ. Thành kính đảnh lễ bậc Thiện Thệ Như Lai từ bi gia hộ cho mùa Lễ Hội Phật Ðản năm nay vì Hòa Bình cho nhân loại trên thế giới và vì sự hạnh phúc, dân chủ cho Việt Nam được thành tựu viên mãn. Ban Tổ Chức Lễ Hội Phật Ðản PL 2553 Chuông vọng Ngân lên sớm đón triêu dương Nhắc nhau ngày mới yêu thương sớt cùng Đời gian nan khổ chập chùng Nhẹ vơi khi trái tim gần bên nhau, Ngân lên trưa nắng đỉnh đầu Nhắc nhau san sẻ sang giàu sướng vui Bát cơm đạo vị chia người Đời khô khốc đã xanh tươi duyên lành, Ngân vào chiều xế nguội tanh Nhắc nhau hâm nóng nghĩa tình thủy, chung Ngàn sau biến đổi không cùng Biết ai bước tiếp, ai dừng chân đi? Ngân lên xuyên bóng tối dầy Nhắc nhau dìu dắt đan tay nhau về Bóng Từ Bi mát chở che Đường dài hun hút chẳng hề quạnh hiu Ngân lên khuya sớm trưa chiều Chuông nhà ai vọng nghe đều ngày qua Chuông chùa nào vọng tâm ta Chuông tâm ta vọng ngân xa gọi người Tâm Không- Vĩnh Hữu CHÁNH PHÁP Trang 9

10 XÂY DỰNG HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH (tiếp theo trang 8) Vấn đề hạnh phúc gia đình, tôi khi còn ở Học Đường Ấn Quang, trong lớp Trung Đẳng có học qua, nhưng không chút quan tâm, chỉ chuyên tu học những tư tưởng triết học của Phật Giáo cho được thông suốt. Lúc đó tôi quan niệm rằng, vấn đề hạnh phúc gia đình là chuyện của thế gian thường tình, không phải là pháp môn vô lậu giải thoát, cho nên không thích hợp với những người xuất gia như tôi để tâm đi sâu vào nó. Đến khi ra nước ngoài, tôi đi hoằng pháp khắp nơi, nhất là ở nước Mỹ và nước Canada, gặp rất nhiều Đạo Hữu hỏi tôi trong Phật Giáo có Kinh nào dạy cách xây dựng hạnh phúc gia đình, cũng như một số thanh niên Phật Tử cũng hỏi tôi về vấn đề trên. Đó cũng là những lý do thúc đẩy tôi phải nghiên cứu lại các kinh điển của Phật Giáo và viết thành tác phẩm này. Nội dung trong tác phẩm này chưa hẳn không có khuyết điểm, nguyên nhân là vì tác giả hoàn toàn chưa có kinh nghiệm trên lãnh vực tình yêu, nhưng dù sao cũng là khởi điểm lúc ban đầu cho những tư tưởng mới đáng giá và thiết thực xuất hiện qua những ngòi bút đầy kinh nghiệm hơn. Tôi hy vọng sẽ đón nhận rất nhiều sáng kiến đầy kinh nghiệm và thiết thực của quý đọc giả bốn phương để bổ xung tác phẩm này cho được hoàn hảo, mong làm sao cho các thế hệ trẻ bước chân vào đời có một cẩm nang gối đầu quan yếu cho việc xây dựng hạnh phúc gia đình. Cẩn bút Phật Lịch 2551, năm Mậu Tý, ngày 4 tháng 3 năm 2008 TỊNH THẤT VIÊN HẠNH Sa Môn THÍCH THẮNG HOAN XÂY DỰNG HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH I.- VÀO ĐỀ: Vấn đề hạnh phúc gia đình là vấn đề trọng đại trong cuộc sống của con người. Từ xưa đến nay không có người nào không bôn ba khắp mọi nẻo đường đời để đi tìm hạnh phúc chân thật cho lẽ sống, nhưng họ hoàn toàn thất bại vì không biết bản chất của hạnh phúc là như thế nào và phải đi tìm ở đâu. Phần đông họ tưởng rằng hạnh phúc phát xuất từ bên ngoài và trên lạc thú vật chất. Cho nên họ thi đua đổ rất nhiều công sức xây dựng hạnh phúc gia đình trên ngũ dục lạc của thế gian, như xây dựng trên tiền tài, trên sắc đẹp, trên danh vọng, trên ăn uống, trên ngủ nghỉ, rồi đi vào thực tế những người đó không có chút nào hạnh phúc cả. Người giàu có cái khổ của người giàu, người nghèo có cái khổ của người nghèo, người quan quyền có cái khổ của người quan quyền, người thứ dân có cái khổ của người thứ dân..v..v…, nghĩa là gia đình nào cũng có thảm cảnh riêng của họ. Họ không biết rằng hạnh phúc chân thật đều phát sanh từ nơi tâm linh của mỗi con người và phải được xây dựng trên tinh thần hòa hợp thân thương. Trong sự sống chung hằng ngày, bất hòa là một tai họa không gì bằng. Trong gia đình, vợ chồng không hòa thì gia nghiệp không thành, con cái khổ sở vì xa cha hoặc xa mẹ. Trong xã hội, xóm làng không hòa thì sanh ra rầy rà, kiện cáo, chém giết lẫn nhau, Quốc gia không hòa thì sanh ra giặc giả loạn lạc, dân chúng khổ sở, Nhân loại không hòa thì chiến tranh tiếp diễn, nhân sanh điêu đứng, suy tàn. Vì sự bất hòa vô cùng nguy hiểm cho nếp sống tập thể, thế nên đức Phật mới chế ra Pháp Hòa Kính, Pháp Hòa Kính gồm có sáu loại, gọi chung là Lục Hòa. II.- ĐỊNH NGHĨA: Lục là sáu, Hòa là hòa kính, nghĩa là hòa thuận và kính nể lẫn nhau. Lục Hòa là sáu pháp hòa kính, nghĩa là sáu phương pháp cư xử hòa thuận, tôn trọng và kính nể lẫn nhau trong sự sống chung. Hòa ở đây không phải nhu nhược mà nhằm mục đích làm lợi lạc cho tất cả, gây hạnh phúc cho tất cả, trong đó có ta và người. Muốn xây dựng hạnh phúc gia đình trên tinh thần Lục Hòa cho được hữu hiệu, trước hết chúng ta cần phải ý niệm rõ tinh thần duyên sanh của Phật Giáo. III.- TINH THẦN DUYÊN SANH: Duyên sanh gọi cho đủ là nhân duyên sanh. Tinh thần duyên sanh, nghĩa là tất cả pháp trong thế gian đều quan hệ lẫn nhau để sanh tồn, để phát triển, cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không, cái này sanh thì cái kia sanh, cái này diệt thì cái kia diệt, bác sĩ sống được là nhờ bệnh nhân hổ trợ và bệnh nhân sống được là nhờ bác sĩ trị liệu, cho đến cỏ cây sống được là nhờ con người cung cấp thán khí và con người sống được là nhờ cỏ cây cung cấp dưỡng khí, v.v… Tất cả đều nói lên tinh thần duyên sanh cả, cho nên nhà thơ có câu: Cây thường cho ta dưỡng khí để ta sống góp mặt đời, Ta thường cho cây thán khí để cho cây lá khoe tươi (Thắng Hoan Thi Tập) LỄ BỐ TÁT ĐẦU NĂM CỦA TĂNG ĐOÀN NAM CALIFORNIA Trên tinh thần duyên sanh, con người muốn sống có ý nghĩa để được hạnh phúc chân thật trước hết cần phải ý niệm những điều cơ bản sau đây: Giá trị gia đình, giá trị nương tựa và giá trị chức năng. (còn tiếp) Trang 10 SỐ RA MẮT

13 căn bản của con người. Chẳng lẽ không có ai chăm lo cho những người bệnh tật, trẻ mồ côi, người già yếu và những kẻ tật nguyền với tấm lòng bất vụ lợi; chẳng có một ai đứng lên vì tình thương yêu kẻ khác hay sao? Những hành vi như thế xảy ra rất nhiều, nhưng ta lại xem những hành vi ấy là bình thường. Tôi tin chắc rằng từ bản chất và từ nơi sâu kín của lòng ta, chẳng có ai muốn sát sinh, hãm hiếp, cước bóc, nói dối hay phạm vào những hành vi tiêu cực khác, trái lại tất cả chúng ta đều hàm chứa khả năng yêu thương và từ bi. Hãy nhìn vào tầm ảnh hưởng của sự trìu mến phát sinh một cách tự nhiên nơi người mẹ khi ta lọt lòng. Thiếu sự triều mến đó, ta đâu còn sống đến hôm nay. Hãy tự nhìn xem chúng ta đang cảm thấy an lành như thế nào khi được che chở bởi tình thương yêu của những người chung quanh, kể cả lúc chính ta tự phát lộ được tình thương yêu đó, trong trường hợp ngược lại ta sẽ cảm thấy khổ sở ra sao khi đang bị giận dữ và hận thù xâm chiếm. Tư duy và hành vi phát sinh từ yêu thương ảnh hưởng đến sức khoẻ tinh thần và thể xác một cách rõ rệt. Chúng phù hợp với bản tính đích thực của ta. Trái lại những hành vi hung bạo, độc ác, hận thù sẽ chi phối và khống chế ta. Để rồi ta cảm thấy thích thú khi đề cập đến những chuyện như thế và cũng chính vì thế mà chúng xuất hiện nhan nhản trên báo chí. Vấn đề nguy hiểm là dần dần ta bị lừa phỉnh, cứ ngỡ rằng bản chất con người là xấu xa. Biết đâu một ngày nào đó chúng ta sẽ thốt lên rằng không còn một hy vọng nào nữa cho loài người. Tôi nghĩ rằng thật cần thiết phải nói với tuổi trẻ như sau: Các em hãy cố gắng nhận thấy những phẩm tính con người đang hiện hữu một cách tự nhiên trong các em. TỪ BI VÀ BẠO LỰC Thích Chân Tuệ Trong thành Xá Vệ (xứ Kosala), ai cũng biết Angulimala là một kẻ sát nhân nguy hiểm. Khi nghe tin Angulimala xuất hiện trong thành phố, mọi người đều kinh sợ. Vua Ba Tư Nặc nghĩ rằng đối với Angulimala, phải huy động cả quân đội mới có thể bắt được. Dân chúng xem Angulimala như ác quỉ, không có tình thương. Tất cả dân chúng trong thành người nào cũng đồng ý là gặp Angulimala thì phải giết, phải tiêu diệt. Chỉ trừ có một người. Người đó nghĩ rằng trong Angulimala vẫn còn có hạt giống thiện. Người đó là đức Thế Tôn. Nhưng chưa ai có khả năng khơi dậy hạt giống đó, cho nên Angulimala chưa có cơ hội để quay đầu trở thành con người tốt. Angulimala đã giết rất nhiều người. Mỗi khi giết một người, anh ta cắt một ngón tay, rồi xỏ xâu đeo vào cổ. Nghe nói anh ta đã có 99 đốt xương rồi. Anh ta muốn giết thêm một người nữa cho đủ số 100, để có xâu chuỗi nạp cho tà giáo. Chữ mala trong danh từ Angulimala có nghĩa là xâu chuỗi. Tên thật của Angulimala là Ahimsaka (Kẻ vô tội). Một buổi sáng, đức Thế Tôn vào thành, đang bưng bát đi khất thực từng bước thảnh thơi thì nghe có tiếng chân chạy phía sau. Ngài biết rằng Angulimala đang đuổi theo, nhưng vẫn bình thản bước đều. Đức Thế Tôn không cần phải thi thố phép thần thông. Ngài có niềm tin lớn nơi tình thương và trí tuệ của mình để vượt khỏi những tình trạng khó khăn. Angulimala lớn tiếng gọi: Tu sĩ kia, đứng lại! Thế Tôn vẫn tiếp tục đi, không mau hơn, không chậm hơn. Phong độ của Ngài rất an nhiên tự tại. Thấy vậy, Angulimala lớn tiếng hơn: Đứng lại! Tu sĩ kia, đứng lại! Đức Thế Tôn thản nhiên tiếp tục bước đi, vẻ tự tại vô úy. Angulimala chạy mau hơn chỉ trong khoảnh khắc đã đuổi kịp và la lên: Tôi bảo ông dừng lại, tại sao không dừng? Thế Tôn vẫn bước đi, nói với giọng điềm tĩnh: Này Angulimala! Ta đã dừng lại từ lâu rồi, chính anh mới là người chưa dừng lại. Chưa bao giờ nghe một câu nói kỳ lạ như vậy, Angulimala ngạc nhiên hỏi: Ông nói sao? Ông đang đi rõ ràng mà tại sao nói ông đã dừng lại? Đức Thế Tôn từ tốn nói: Này Angulimala, trên con đường tạo tác những ác nghiệp thì ta đã dừng lại từ nhiều kiếp rồi. Còn anh, anh vẫn còn đang tiếp tục, anh nên dừng lại! Lúc đó đức Thế Tôn đứng lại. Angulimala cũng đứng lại. Đức Thế Tôn nhìn thẳng vào Angulimala mà nói: Anh biết không, ở đời ai cũng sợ đau khổ, ai cũng muốn sống, ai cũng sợ chết. Mình phải biết thương người! Angulimala la lên: Trên đời này có ai thương tôi đâu, mà bảo tôi thương họ? Loài người là loài độc ác nhất ở trên đời, tôi muốn tiêu diệt hết loài người cho hả dạ tôi. Đức Thế Tôn nói: Này Angulimala, tôi biết anh đã chịu nhiều đau khổ. Cuộc đời đã bạc đãi anh, người ta đã không tử tế với anh, đã làm khổ anh. Anh đâm ra hận thù cuộc đời! Nhưng anh nên biết: hận thù chỉ làm cho mọi người thêm khổ đau, chỉ có tình thương mới đem lại hạnh phúc cho đời mà thôi. Angulimala la lớn: Tình thương hả? Ai là người có tình thương, ông chỉ cho tôi coi? Đức Thế Tôn vẫn dịu dàng: Anh đã từng gặp vị tỳ kheo hay tỳ kheo ni nào chưa? Các vị đó không những tôn trọng sinh mạng của con người, họ còn tôn trọng sự sống của loài vật. Họ tôn trọng các loài cỏ cây và đất đá nữa. Nếu anh gặp được họ, anh sẽ thấy rằng tình thương là cái gì có thật. Khi có tình thương trong lòng, người ta không còn đau khổ nữa. Hận thù là một khối lửa đốt cháy con người, đốt cháy thế gian. Anh nên quay đầu lại, từ khước bạo lực, trở về với con đường cảm thông và yêu thương. Những lời nói của Thế Tôn tràn đầy từ bi, phát xuất từ trái tim. Angulimala là một con người thông minh nhưng bị hận thù che lấp. Nghiệp thiện ngày xưa của Angulimala tác động vào tư tưởng, và anh ta biết rằng mình đang đứng trước mặt Đức Phật Thích Ca. Ngài đã vì lòng thương xót mà đến cứu anh ra khỏi vòng tội lỗi. Anh ta vứt gươm xuống đất, xin Đức Phật cho được xuất gia. Đức Phật chỉ nói một câu đơn giản: “Ehi! Bikkhu” (Hãy đến! Tỳ kheo). Thế nhưng, mặc dù xuất gia, tinh thần của Tỳ kheo Angulimala vẫn không được yên ổn. Thường xuyên, ông bị ám ảnh bởi tiếng kêu khóc của những người bị ông sát hại. Có hôm, đi khất thực, ông bị quần chúng đuổi đánh, ném đá, ông trở về tu viện, lỗ đầu, chảy máu. Đức Phật giải thích cho biết, đó là Angulimala trả nợ nghiệp ác cũ của mình. Sau này, Angulimala tu chứng thánh quả A la hán. Tóm lại, chúng ta thấy câu chuyện Angulimala gặp đức Thế Tôn là một cuộc đấu gươm rất ngoạn mục: Angulimala có thanh (xem tiếp trang 16) (xem tiếp trang 16) CHÁNH PHÁP Trang 13

14 D ừng chân bên khu vườn rợp bóng mát của những táng cây cổ thụ, Người lữ khách đặt nhẹ chiếc ba lô xuống, rồi ngồi thư giản trên một tảng đá trong tư thế toạ thiền đếm hơi thở. Dù từng đi đây đó nhiều, cảm thụ biết bao kỳ quan dị cảnh cuả đất trời, nhưng chàng vẫn bị thu hút trước vẻ đẹp huyền ảo của buổi ban mai rực vàng bóng nắng. Nhiều người khác cũng lần lượt kéo tới, không gian bao trùm trong sự chiêm bái thành kính mà yên lặng tôn nghiêm. Đến với miền đất Phật xa xôi này, Du Tử chợt nghe lòng thoáng chút nhẹ nhàng thanh thản an vui. Khu rừng Lâm Tỳ Ni đang bước những ngày hạ nắng gắt. Từng đoàn người hành hương trên khắp các châu lục kéo về nhân kỷ niệm ngày Đức Phật Thích Ca đản sanh. Dòng người cứ đông dần lên trong tuần lễ cuối khi trăng rằm tháng tư vừa đến. Những nén hương, những đoá hoa đủ sắc đủ màu được bày biện cắm đầy xung quanh trụ đá, mà Vua A Dục đã cẩn thận ghi dấu lại để cho người đời sau biết được nơi Phật đã ra đời. Du Tử- những người quen biết đều gọi Chàng bằng cái tên đó với nhiều ngụ ý, đến đây từ rất sớm. Chàng ngồi yên lặng hằng giờ để ngắm cảnh vật và dòng người qua lại. Chàng có lối hành hương DẤU CHÂN MÙA PHẬT ĐẢN Lam Khê không giống ai. Không nghiêng về màu sắc tín ngưỡng, cũng không mang tính chất tham khảo nghiên cứu. Nói chung là chàng chỉ nhìn và suy nghiệm mọi thứ theo lăng kính và suy tưởng riêng cuả mình. Khu vườn này Du Tử từng tham quan vào các mùa khác. Hôm nay, Chàng đến với tâm trạng của người mong tìm lại dấu chân xưa. Bước đường thiên lý đã đưa chàng đi khắp nơi, chiêm bái hầu hết các Thánh tích Phật Giáo. Mỗi chuyến đi là mỗi lần cảm thụ sâu hơn về cảnh sắc qua tâm ý thức trở về. Nhưng thường cứ khơi dậy trong chàng sự ưa thiách tìm cầu khám phá. Từ buổi khởi đầu cho bước đường du phương lãng tử, Du Tử chưa có một khái niệm gì rõ rệt. Chẳng qua vì tánh hiếu kỳ của tuổi trẻ, ưa thích làm kẻ độc hành dong ruổi cho thoả chí bình sinh. Dù không mang phong cách của người mộ đạo chơn chánh. Nhưng Chàng cũng tìm đọc kinh điển Phật để biết thêm về những nơi mình đến, tham khảo với các vị tu hành đạo hạnh. Càng tìm hiểu chàng càng thích thú vui mừng như đứa con đi xa được trở về với ngôi nhà cũ. Chàng tự ví mình như gã Cùng Tử mà Phật dẫn dụ trong kinh Pháp Hoa, đã tìm ra được đấng cha lành sau bao năm xa cách. Người con vốn mang mặc cảm tội lỗi thấp hèn nên không bao giờ dám nghĩ là sẽ có ngày mình được thừa hưởng cả một kho tàng phật pháp cao siêu vô giá. – Này Ông! Sao không đi chiêm lễ quanh trụ đá mà lại ngồi đây. Ông không nhìn thấy là mình làm cản trở bao người khác, khi ai cũng phải bước vòng để tránh đó sao? Một người phụ nữ đến bên nói nhỏ làm Du Tử giật mình vội đứng dậy tránh đường: – Xin lỗi Tôi đã không để ý. – Tôi nói vì nghĩ là Ông mãi chiêm bái nên quên, chứ không có ý gì. Xin đừng phiền. Chắc Ông mới đến đây lần đầu chứ gì? Du Tử mỉm cười không đáp. Lạ thật, trời đã xế chiều; Từng đoàn người đến hành lễ rồi đi, vậy mà Chàng cứ ngồi đây không biết đến mọi khoảnh khắc trôi qua của thời gian. Phải rồi! Chàng đang bận chiêm bái Thánh tích và suy tưởng lại một thời đại xa xôi từng hiện hữu trên mảnh đất mang đầy sự tích huyền thoại về cuộc đời của Đức Phật. Thái Tử Tất Đạt Đa đản sanh đúng vào thời điểm nầy của hơn hai ngàn năm trước. Nơi đây, cây Vô Ưu một ngàn năm bỗng trổ ra những sắc hoa rực rỡ, cùng bảy búp sen hồng vươn lên từ lòng đất để đón lấy bước chân của bậc Đại Giác vừa xuất hiện ở đời. Và Người đã thốt lên một câu nói để trở thành di ngôn bất diệt cho muôn đời sau. Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn (trên trời dưới đất chỉ có mình ta là tôn quý). Có vẻ thần tượng hoá về sự kiện ra đời của Phật, nhưng thời gian đã mặc nhiên công nhận dòng lịch sử ấy, và niềm tin cứ len lỏi dần vào tâm tư của bao thế hệ người đi qua. Quãy chiếc ba lô lên vai, Du Tử từ từ tiến sâu vào rừng. Những người hành hương thường qua đêm bên mấy ngôi khách sạn nằm ngoài khu vườn. Có người trải bạt, giăng lều xung quanh trụ đá hay đền thờ Ma Da phu nhân để nghỉ lại. Du Tử nghe nói sâu trong khu rừng có nhiều hang động mà từ thuở xa xưa, hay bây giờ thỉnh thoảng có mấy vị Đạo sĩ vào đó nhập thiền. Vốn tánh thích mạo hiểm, cũng như ưa sự yên tịnh vắng lặng, Du Tử muốn tìm chỗ nghỉ ngơi trong hang động nào đó. Sáng sớm mai Chàng sẽ trở ra tham bái trụ đá Phật đản sanh một lần nữa. (Nếu như đêm nay không bị thú rừng hỏi thăm). Khi màn đêm buông xuống, Du Tử vẫn còn len lỏi trong rừng. Ánh trăng rằm thoắt ẩn thoắt hiện vì bị những tàng cây cao che khuất, nhưng cũng soi tỏ con đường mòn đầy cỏ dại và gai góc để Chàng đi tới. Có tiếng Cú rừng kêu văng vẳng, tiếng gió đập mạnh vào các khe đá vang lên một thứ âm thanh rờn rợn nghe như tiếng thú rừng vẫy chết trong những chiếc bẫy vô hình, càng làm cho không gian chìm trong nỗi hãi hùng ghê rợn. Du Tử không cảm thấy lo lắng hay sợ sệt. Chàng đã từng trải qua nhiều khu rừng vắng, lang thang trên những con đường ít người lui tới, nhưng chưa bao giờ đi trong bóng đêm tịch mịch như thế này. Xuyên qua cánh rừng và bóng trăng, chàng trai đến bên một triền núi thấp. Khi leo lên mấy bè đá, tìm được nơi bằng phẳng để ngồi nghỉ, Trang 14 SỐ RA MẮT

15 Du Tử nghe có tiếng suối chảy róc rách qua màn sương đêm mờ ảo. Dòng suối từ nên dốc cao đổ xuống, hình thành một khe nước trong vắt như mang cả cảnh sắc và bầu trời đêm soi tỏ vào nơi sâu thẳm của dòng chảy. Chàng đứng lên hít thở thật sâu, rồi kêu lên khe khẻ: – Ồ nơi đây thật là tuyệt diệu. Ta sẽ ngồi tĩnh tâm nơi tảng đá này để ngắm trăng suốt đêm. Các Tổ Sư ngày trước chắc cũng có vị từng đến đây tu tập thiền định. Du Tử để túi xách sang bên rồi lần xuống suối tắm rửa một chút cho sảng khoái. Vừa ngâm mình trong làn nước mát lạnh, Du Tử vừa đưa mắt nhìn quanh. Dường như mọi cảnh quan của núi rừng đều kết tụ nơi đây. Chàng muốn thu hết mọi thứ vào trong tầm mắt của mình, để cùng thấm lạnh với sương đêm, để nghe rõ mọi thinh âm của đất trời trong đêm tịch diệu. Tắm xong, chàng theo ngách đá phía bên kia đi lên và bất ngờ nhìn thấy một hang động. Nương theo ánh trăng, chàng đi vào hang. Bên trong không rộng, lại thông với hóc núi khác. Du Tử lần bước sang bên đó. Cả một cánh rừng hoa và cây trái xanh tươi rậm rạp bỗng nhiên hiện bày ra. Đá núi chập chùng, mây trời thấp thoáng khi gần khi xa. Cũng có ánh trăng soi sáng và dòng suối trong xanh uốn khúc, mà sao phong cảnh nơi đây như chốn thần tiên cõi mộng. Chàng thoáng thấy một bóng người ngồi khuất sau một hóc đá. Hơi e ngại nhưng Du Tử vẫn bước tới. Vị Đạo sĩ có râu tóc dài bạc phơ và trang phục như người tiền sử đang tĩnh toạ, chợt mở mắt ra nhìn Chàng. Giây lâu sau khi xả thiền, Ẩn sĩ cất tiếng hỏi Du Tử nãy giờ vẫn đứng yên: – Ngươi là ai? sao lại đến được nơi này? – Chính con muốn hỏi Ngài là ai mà lại ngồi ở đây trong đêm hôm khuya khoắc? – A! cái gã du phương lãng Tử, Ngươi đã đến đây mà còn cao giọng như thế à! Ta ngồi đây suốt hai ngàn năm rồi, chưa từng thấy một bóng người lai vãng. Nay ngươi là người đầu tiên gặp được ta, có thể gọi là nhân duyên hội ngộ. – Ngài nói sao? Ngài ngồi đây đã hai ngàn năm rồi. Vậy ra ngài là Tôn giả Ca Diếp. Nhưng Tôn giả đang bận thiền định tại núi Kỳ xà Quật chờ dự hội Long Hoa của Phật Di Lặc chứ đâu có ngồi ở chốn này. – Ngươi có vẻ thuộc sử Phật Giáo lắm. Nhưng Ta chẳng phải là Tôn giả Ca Diếp. Ta là ai ngươi chớ tìm hiểu làm gì. Vì ngươi đã có duyên gặp ta ở đây, nên Ta cũng muốn nói mấy lời. Nếu Ngươi cứ mãi làm kẻ cùng tử lang thang như thế này thì bao giờ bước vào được ngôi nhà chánh pháp của Như Lai. Phật diệt độ đã hơn hai ngàn năm rồi. Thời kỳ chánh pháp tượng pháp đã qua, còn mạt pháp thì đang tới. Tất cả mọi sự kiện hưng suy dời đổi cùng những chuyển biến xáo trộn trong cuộc đời, đã tạo ra nhiều bước ngoặc cho Đạo Phật tồn tại và lan rộng khắp năm châu bốn bể. Con người thời nay ưa tìm cầu nắm bắt những cái hư ảo bên ngoài, nên ra sức nghiên cứu đào xới lại bao dấu vết của người xưa. Nhưng Họ không chịu hiểu là đạo pháp sâu xa vi diệu nằm ngay trong tâm mình. Mỗi người đều có hột minh châu quý giá cột nơi chéo áo, vậy mà cứ mãi chịu cực khổ tìm kiếm xa xôi. – Ồ! Ngài nói y như một diễn giả đang thuyết pháp. Nhưng Ngài là người của thời đại xa xưa, lại ở trong chốn hang động như thế này, làm sao biết rõ từng diễn biến của cuộc đời. Như lời Phật nói chúng sanh thời mạt Pháp nghiệp chướng sâu dày khó tu khó độ. Còn ngài đại diện cho thời kỳ chánh pháp, chắc hẳn đã nhận di ngôn của Phật mà lưu lại xác thân cho đến ngày nay để làm công việc truyền thừa chánh pháp tiếp độ chúng sanh. Vậy sao ngài vẫn ở mãi nơi này, một mình vui với Pháp thiền duyệt Đạo mầu, mà bỏ quên hết bao tiếng kêu thống khổ của nhân sinh. Như vậy thật trái với lòng từ bi và bổn nguyện của người tu sĩ. Lại nữa, thời đại văn minh cần có sự chứng thực rõ ràng về nơi đản sanh, hành đạo của vị đã sáng tạo ra chơn lý Đạo Phật, như vậy con người mới có đủ niềm tin để xác định phương hướng. Cũng như con đây, từ chỗ ham tìm hiểu vui chơi mà lần lần tin tưởng Đạo Pháp sâu xa. Dù mang hình thức gì đi nữa nhưng biết hướng thiện làm lành, cũng là tốt lắm rồi. Còn sự chứng ngộ thì cần phải có thời gian, tuỳ theo năng lực và bổn nguyện của mỗi người. Hơn nữa bây giờ Vị ẩn sĩ mỉm cười từ tốn:_ Này! Ta không có ý chê trách gì đâu. Mỗi thời đại, mỗi con người đều có tầm tư tưởng và trọng trách khác nhau. Chỉ sợ vì cách Phật đã lâu xa, giáo pháp tuỳ duyên e sẽ làm mất đi bản sắc ban đầu. Tìm kiếm chân tướng đạo mầu không thể ngao du mãi ở chốn sơn cùng hải tận. Dấu chân Phật Tổ nằm sẵn trong tâm niệm mỗi người. Đành rằng pháp môn thì vô tận, nhưng con đường quy tâm trước sau cũng chỉ có một. Thôi trời sắp sáng rồi, Ngươi nên quay về. Bình minh sẽ toả rạng trước khi Ngươi trở lại được Quê nhà. Đừng nghĩ là ta không thiết gì đến sự thống khổ của Thế Gian. Cũng bởi nhân loại ngày nay mãi đua chen trong vòng danh lợi phù hư, thì làm sao thấy được tâm nguyện từ bi của Bồ Tát luôn có mặt khắp nơi để cứu người giúp đời. Nay Ta chỉ muốn nhắn nhủ với Ngươi cùng tất cả mọi người rằng: Hãy luôn lau chùi và gìn giữ hạt minh châu sáng rỡ trong tự tâm của mình. Mọi bóng sắc bên ngoài dù tốt dù xấu cũng dễ làm cho ta mê lầm hoan lạc trong nẻo thường tình mà quên mất mọi phương hương quay về Du Tử trở lại vườn Lâm Tỳ ni. Chàng theo dòng người đi đi nhiễu quanh trụ đá. Trời nắng nóng quyện hòa theo mùi hương khói nhập nhoà, nhưng lòng Chàng thật sự mát dịu trong âm vang của núi rừng đang vào hạ. Một đêm trải qua bên khu rừng lạnh, Chàng không rõ mình đang bước vào cõi thực hay mơ. Tỉnh dậy bên một khe đá hẹp, giữa vầng trăng thanh và dòng suối trong veo lắng động, Du Tử vẫn còn mang cảm giác bồi hồi xao động. Vị ẩn sĩ đã đi rồi hay người không thực sự hiện hữu nơi này; Người chỉ ẩn hiện trong tiềm thức, để cho một kẻ rong ruỗi như Chàng chợt nhận ra được dấu chân thực sự lâu nay của mình. Chàng đang trở lại mái nhà xưa, hay vẫn tha phương tìm kiếm bao chân trời mới lạ. Trước lúc bình minh, Chàng sẽ tìm ra được câu trả lời. Chàng quay về khu vườn đảnh lễ nơi đản sanh của Đức Từ Phụ rồi lại ra đi. Chơn lý Đạo mầu bừng ngộ sau một đêm tĩnh thức, trong từng âm thanh thâm diệu của núi rừng. CHÁNH PHÁP Trang 15

16 VÀI LỜI KHUYÊN CHO TUỔI TRẺ Đức Đạt-lai Lạt-ma – Hoàng Phong dịch (tiếp theo trang 12) Các em hãy xây dựng trong lòng một niềm tự tin vững chắc, và tập cho mình biết đứng thẳng trên đôi chân của chính mình! Một số bạn trẻ khởi sự bước vào đời nhưng không hiểu mình muốn gì. Các bạn ấy chọn một nghề nào đó, nhưng lại cảm thấy không thích hợp với mình, bỏ nghề và chọn một nghề khác, sau đó lại tiếp tục bỏ nữa, sau cùng thì buông trôi tất cả và nghĩ rằng chẳng có gì cho mình tha thiết cả. Nếu người bạn trẻ của tôi rơi vào trường hợp như thế, vào trường hợp như thế, thì cũng nên hiểu rằng không có một sự sống nào mà không gặp khó khăn. Đừng nên hy vọng tất cả sẽ bỗng nhiên tự động thành công và những khó khăn sẽ tan biến như phép lạ. Khi các bạn học xong và tìm kiếm một việc làm, thì hãy chọn lựa nghề nghiệp phù hợp với bản chất của mình, sự hiểu biết của mình, khả năng của mình, quyền lợi của mình và có thể của gia đình mình, kể cả bạn hữu hay thân thuộc của mình nữa. Cũng có thể cho là hợp lý khi ta biết chọn một nghề nghiệp mà những người chung quanh đang thực thi. Như thế ta có thể nhận được những lời chỉ dẫn và thừa hưởng những kinh nghiệm của họ. Hãy quán xét tất cả mọi yếu tố, chú ý đến những khả năng nào phù hợp nhất với hoàn cảnh của mình để lựa chọn. Khi đã chọn thì cố gắng duy trì. Dù có gặp khó khăn đi nữa, thì hãy quyết tâm để vượt qua. Hãy tự tin nơi chính mình và huy động mọi năng lực sẵn có. Nếu bạn nghĩ rằng nhiều nghề nghiệp sẽ chờ đợi bạn như những món ăn để cho bạn tự do nếm thử, hết món này đến món khác, thì quả thật bạn sẽ có rất ít may mắn để thành công. Hãy tự nhủ rằng một ngày nào đó rồi cũng phải chọn lấy một quyết định và trong thế giới này tuyệt đối không có bất cứ một thứ gì lại không hàm chứa những bất lợi. Tôi nghĩ rằng chúng ta thường cư xử như những đứa trẻ được nuông chìu quá đáng. Khi còn bé xíu, chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào cha mẹ. Đến tuổi đi học, chúng ta được giáo dục, có cơm ăn áo mặc, tất cả gánh nặng và khó khăn đè lên vai của kẻ khác. Đến lúc ta đủ sức lo toan cho chính sự hiện hữu của mình, tự vác lên vai gánh nặng của chính mình, thì ta lại nghĩ rằng tất cả đều sẽ dễ dàng! Thái độ ấy trái ngược với thực tế. Trong thế giới này, không có một ngoại lệ nào cả, tất cả mọi chúng sinh đều phải gặp những khó khăn. Hoàng Phong dịch, [Trích trong quyển: Những lời khuyên tâm huyết của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, sách được thực hiện với sự hợp tác của Ngài Mathieu RICARD, do Christian BRUYAT dịch từ tiếng Tây Tạng, nhà xuất bản PRESSE DE LA RENAIS- SANCE, Paris, 2001] HÓA THÂN TỪ BI VÀ BẠO LỰC Thích Chân Tuệ Màn tuyết trắng giăng mờ đôi ngả (tiếp theo trang 13) Vầng trăng xưa nay đã về đâu Hóa thân từ hạt bụi nào Mà ngồi đây với sắc màu thực hư. Thân hư huyễn Tâm Như tịch tĩnh Đời vô thường bất định mong manh Vô ngôn – vô sắc – vô thanh Bụi xưa nay đã hoá thành càn khôn. MỸ HUYỀN gươm của trí tuệ và từ bi. Trên thế gian này, chỉ có từ bi và trí tuệ hóa giải được bạo lực và hận thù mà thôi. Chúng ta hãy suy ngẫm những lời dạy vàng ngọc sau đây của chư Phật, chư Tổ: Lấy oán báo oán Oán nghiệp chập chùng Lấy ơn báo oán Oán nghiệp tiêu tan Thắng lợi sinh thù oán Thất bại chịu khổ đau Không hơn thua thắng bại Sống an nhiên tự tại Người hơn thì thêm oán Kẻ thua ngủ chẳng yên Hơn thua đều xả bỏ Giấc ngủ được bình yên Hận thù diệt hận thù Đời đời không thể có Từ bi xóa hận thù Định luật đúng thiên thu Thích-Chân-Tuệ Cơ-sở Phật-học Tịnh-Quang Canada Trang 16 SỐ RA MẮT

17 Phật Ngọc cho nền hòa bình thế giới (tiếp theo trang 5) Tôi gọi khối ngọc này là Polar Pride, và tôi sẽ không xẻ thêm chút nào vào khối ngọc này nữa. Tôi sẽ để nguyên như vậy mà đấu giá, vì đây là một kỳ quan của thiên nhiên. Tôi mong đợi khối đá này sẽ trở thành một món vật đặt trong viện bảo tàng, một công trình lớn, một biểu tượng; là khối ngọc thạch nephrite với màu xanh sáng đẹp chưa từng thấy trên toàn thế giới. hai mô hình trước khi bắt đầu khắc tượng, một mô hình thu nhỏ và một mô hình đúng kích thước. Các mô hình khắc tượng được giám đốc tinh thần của công trình khắc tượng là Lama Zopa Rinpoche đích thân kiểm soát và phê chuẩn. Phật Ngọc Quanh Thế Giới Lần đầu tiên Việt Nam triển lãm một tượng Phật bằng đá quý vĩ đại này và cũng là nước đầu tiên trên thế giới có thắng duyên được triển lãm Ngọc Phật. Sau khi kết thúc chương trình triển lãm ở Việt Nam, Phật Ngọc này sẽ được thỉnh đến triển lãm ở các thành phố lớn của Úc Đại Lợi như Brisbane, Sydney, Perth, Adelaide và Melbourne, trước khi đến Đài Loan,Tân Tây Lan và Hoa Kỳ. Tại Việt Nam, tượng Phật Ngọc sẽ được trưng bày tại năm ngôi chùa lớn trong vòng 10 tuần lễ. Dự kiến sẽ có hơn 100,000 người đến chiêm bái và đảnh lễ pho tượng tôn quý này. Trên thế giới có một vài tượng Phật bằng ngọc ở nhiều nơi hành hương khác nhau. Danh tiếng nhất là Phật Ngọc ở Chùa Shwedagon, Miến Điện, “Phật Ngọc Lục Bảo” ở Thái Lan, và Phật Ngọc ở Chùa Phật Ngọc, Thượng Hải. Phật Ngọc khắc từ khối ngọc thạch Polar Pride nhất định cũng sẽ tràn đầy ý nghĩa như các tượng Phật Ngọc nói trên. Người khắc Phật Ngọc Công trình khắc tượng Phật Ngọc do công ty Jade Thongtavee đảm nhận. Đây là một công ty Thái Lan làm việc lâu năm, đầy uy tín trong giới khắc ngọc, nằm ở gần Chiangrai phía Bắc Thái Lan. Công Ty Jade Thongtavee do ông Boonthong Yotharvut thành lập. Sau nhiều năm kinh nghiệm khắc ngọc ở Thái, ông Yotharvut đã sang Trung Hoa tu học kỹ thuật chạm ngọc trên hơn một năm. Khi trở lại Thái Lan, ông thành lập công ty Jade Thongtavee vào năm Jade Thongtavee nay có hơn 30 tay thợ khắc ngọc lão luyện, tạo ra nhiều sản phẩm mỹ thuật nổi tiếng có giá trị nghệ thuật cao, được các nhà sưu tập và chùa chiền ở khắp nơi ưa chuộng. Công trình điêu khắc Phật Ngọc cho Hòa Bình Thế Giới là do ông Vanit Yotharvut, con trai của nhà sáng lập công ty và cũng là giám đốc đương thời của công ty Thongtavee, trực tiếp giám thị. Công ty này đã thực hiện CHÁNH PHÁP Tại Úc Châu lịch trình triển lãm như sau: Việt Nam là nước đầu tiên trên thế giới triển lãm Ngọc Phật Hoà Bình: Lịch trình triển lãm tượng Phật Ngọc ở Việt Nam – Từ ngày 13/3-15/3: Chùa Quán Thế Âm (Non Nước, Đà Nẵng) – Từ ngày 21/3-26/3: Chùa Đại Tùng Lâm (Bà Rịa Vũng Tàu) – Từ ngày 29/3 5/4: Chùa Phổ Quang (Quận Tân Bình, TP. HCM) – Từ ngày 9/4 24/4: Chùa Hoằng Pháp (Hóc Môn, TP. HCM) – Từ ngày 1/5 10/5: Chùa Vạn An (Châu Thành, Đồng Tháp) Theo sau Việt Nam, Phật Ngọc này sẽ được thỉnh đến triển lãm ở các thành phố chính của Úc Đại Lợi như Brisbane, Sydney, Perth, Adelaide và Melbourne, trước khi đến Đài Loan,Tân Tây Lan và Hoa Kỳ. Tháng 6-7: Brisbane, địa điểm thông báo sau Tháng 8: Sydney, Thiền Viện Minh Quang Tháng 9: Perth, địa điểm thông báo sau Tháng 10: Adelaide: Chùa Pháp Hoa, Nam Úc Tháng 12: Melbourne, địa điểm thông báo sau Tháng 10, 2010: Tu Viện Quảng Đức, Melbourne Tháng 12, 2010: Auckland, New Zealand, địa điểm thông báo sau Phật Ngọc ở Chùa Shwedagon, Miến Mục đích của việc triển lãm: Mục đích của việc triển lãm tượng Phật Ngọc & Xá lợi Phật là tạo cơ duyên cho nhiều người đến chiêm bái và đảnh lễ, không phân biệt tôn giáo, tất cả đều có thể tới tham dự miễn là chúng ta dành một chút thời gian để khi chiêm bái chúng ta có dịp thấy rõ hơn về giá trị của hòa bình, để cầu nguyện Phật Ngọc và Xá lợi Phật sẽ đem lại hòa bình cho thế giới, bình an cho các mối quan hệ, bình yên cho gia đình và bè bạn, bình an trong công sở, và sự thanh thản trong tâm hồn. Chúng tôi kỳ vọng rằng với niềm khát khao mãnh liệt ấy sẽ mang đến niềm hoan hỷ và khích lệ lớn lao cho những ai có cơ hội được chiêm ngưỡng tượng Phật Ngọc, đặc biệt trong thời điểm thế giới của chúng ta đang bị bao vây bởi những bóng đen của chiến tranh và thiên tai. Phật Ngọc ở Chùa Phật Ngọc, Thượng Đôi nét về người phát tâm tôn tạo pho tượng Ngọc Phật này Bắt nguồn từ giấc mơ của Lạt Ma Zopa nhìn thấy mỏ Ngọc tại Canada, cùng với lời khuyến khích của Ngài, Đạo hữu Ian Green đã phát tâm tôn tạo pho tượng Ngọc Phật này. Đạo hữu Ian Green đã là một Phật tử hơn 35 năm. Bắt đầu từ khi ông du hành đến Phật ngọc đã khắc xong Trang 17

18 Ấn Độ khoảng đầu năm Tại đây ông đã xúc động bởi làm sao Đời sống tâm linh đóng vai trò rất quan trọng trong nền văn hoá này. Điều đó cho tôi thấy rõ xã hội phương Tây quả là thiên về vật chất quá thay. Cuối kỳ nghĩ ở Ấn Độ đó Ian đã thăm viếng thánh thành Ba La Nại nằm dọc theo sông Hằng và đến tận gần vườn Lộc Uyển. Ông vẫn còn nhớ mãi vẻ tĩnh lặng không cùng nơi này, trái ngược với cả những gì náo nhiệt, ồn ào của xứ Ấn độ mà ông cảm nhận đến lúc đó. Ian cũng nghiệm thấy tâm hoàn toàn an tịnh tại vườn Lộc Uyển như thể là đã về đến mãi tận quê nhà. Ông cũng ngập tràn cảm xúc vì một công trình tạc khắc từ đá ở vườn Lộc Uyển mà theo ông dường như có một năng lực khó tin tỏa ngời. Đạo hữu Ian Green đã chiêm ngưỡng Đai Tháp ở vườn Lộc Uyển nơi được đánh dấu là Đức Phật giảng bài pháp đầu tiên sau Ngài chứng ngộ, cũng là một trong sáu thánh địa của Phật giáo. Sau khi viếng thăm vườn Lộc Uyển, ông mua một cuốn sách, đề tài Phật giáo là gì? để tìm hiểu những ý niệm của Phật giáo như nghiệp và tái sanh. Ông nói Tôi có cảm tưởng tôi đã biết tất cả những điều này, dù rằng chưa từng thấy những lời viết này trước đó. Ian bây giờ công nhận trong những đời trước mình đã có cơ duyên tiếp cận với Phật giáo. Và dường như ông không có chọn lựa nào khác mà hiển nhiên là một Phật tử. Năm 1981, thân phụ của ông cúng dường 50 mẫu đất hoang sơ với trùng điệp cây rậm thấp cho Lạt Ma Yeshe để kiến lập một trung tâm Phật giáo. Lạt Ma Yeshe sau đó đã vẽ họa đồ chính cho vùng đất Bendigo này và từ đó Trung Tâm Atisha, Chùa Thubten Shredrup Ling cùng Pháp-Giới Từ-Bi Đại-Bảo-Tháp lớn mạnh hình thành một trung Tâm Phật giáo có tầm cở ở Úc Đại Lợi. Bảo Tháp Đại Từ Bi đã trở thành công trình của cả cuộc đời Đạo hữu Ian Green. Bảo Tháp tại Bendigo khởi nguồn từ ý của Lạt Ma Yeshe, một Tăng sĩ Tây Tạng đã viên tịch và là một trong những Lạt Ma đầu tiên giảng dạy về đạo Phật cho người Tây phương. Đại-Bảo-Tháp hiện đang xây dựng tại nước Úc này sẽ có cùng kích thước và kiến trúc giống như Đại Tháp Gyantse ở Tây Tạng. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói về Pháp-Giới Từ-Bi Đại- Bảo-Tháp như sau: Ngay ở thời điểm này, khi những di sản văn hóa Tây tạng đang dần bị tiêu diệt, kiểu mẫu Tháp theo phương cách Tây Tạng mang lại nhiều ý nghĩa cho đời sống tâm linh của Phật tử và cho văn hóa Phật giáo Tây Tạng. Hỗ trợ cho dự án cao quý này là pháp hạnh tốt để tạo thiện nghiệp. Đạo hữu Ian Green là Trưởng Ban Điều hành công trình Pháp-Giới Từ-Bi Đại- Bảo-Tháp kiêm Giám đốc Dự án Phật Ngọc Thạch. Ông cũng là Chủ tịch của Dalai Lama in Australia Ltd, một tổ chức chuyên về những chuyến pháp du của Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Úc. Đạo hữu Ian và phu nhân là Judy thường hợp tác trong công việc phát triển Trung Tâm Atisha và Đại-Bảo-Tháp. Ngoài ra bà Judy còn là Quản lý Dự án Phật Ngọc Thạch. Mọi chi tiết về Phật Ngọc, xin liên lạc về địa chỉ: Đạo Hữu Ian Green The Great Stupa of Universal Compassion Ltd. 43 View Street Bendigo VIC 3550 Australia Phone: (office hours) Fax: Website: or: Xin chấp tay nguyện cầu cho công cuộc triển lãm Phật Ngọc tại Việt Nam và vòng quanh thế giới được thành tựu viên mãn trước khi Ngọc Phật được thỉnh về tôn thờ tại Bảo Tháp Đại Từ Bi ở Bendigo, Victoria, Úc Đại Lợi Thích Nguyên Tạng (tổng hợp các tài liệu do Đạo Hữu Ian Green cung cấp) L gia trì tôn tng sau khi khc xong ti Thái Lan Trang 18 Ông bà Ian Green tại xưởng điêu khắc Ngọc Phật ở Thái Lan ĐĐ Nguyên Tạng & Ông bà Đạo Hữu Ian Green (bên phải) (hình chụp tại tuần lễ chiêm bái Xá Lợi Phật tại Tu Viện Quảng Đức, tháng 10- SỐ RA MẮT

20 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI Diệu Âm lược dịch nguồn Pháp Vân & Hải Triều Âm Triển lãm tượng Ngọc Phật lớn nhất thế giới tại Việt Nam Lịch trình cung thỉnh tượng Phật Ngọc ở Việt Nam đã được ấn định, với đợt trưng bày mở đầu tại chùa Quán Thế Âm, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng (từ 13-3 đến ), trong dịp lễ hội Quán Thế Âm 19-2 Âm lịch. Sau đó tượng đưa vào trưng bày tại 4 địa điểm khác ở phía nam, gồm: chùa Đại Tùng Lâm ở Bà Rịa- Vũng Tàu (từ 21-3 đến 26-3), chùa Phổ Quang, quận Tân Bình, Saigon (29-3 đến 5-4), chùa Hoằng Pháp, quận Hóc Môn, Saigon (9-4 đến 24-4), chùa Vạn An, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp (1-5 đến 10-5). Tượng có tên là “Phật Ngọc cho Hòa bình Thế giới”, cao 3.5 mét và nặng 4.65 tấn, được tạo tác từ tảng ngọc thạch nguyên khối khổng lồ. Tượng được điêu khắc theo khuôn mẫu Đức Phật Thích Ca đang thờ trong Bảo Tháp Đại Từ Bi tại thánh địa Bồ đề Đạo tràng, Ấn Độ. Sau điểm đến đầu tiên là Việt Nam, tượng Phật Ngọc sẽ được trưng bày tại Úc, Mỹ, Indonesia và các nước khác. (Thanh Nien News, ) NHẬT BẢN: Chùa chiền và việc cấm hút thuốc lá Hưởng ứng các biện pháp chống hút thuốc lá được phát động trong những năm gần đây, ngày càng có thêm các ngôi chùa nổi tiếng thu hút rất đông khách tham quan đã cấm hút thuốc trong khuôn viên chùa. Người ta có thể thấy rõ những biển báo không-hút-thuốc tại 11 vị trí của chùa Koganji ở hạt Sugamo thuộc trung tâm Tokyo. Nhiều chùa chỉ cấm hút thuốc bên trong các toà nhà quanh chánh điện, nhưng chùa Koganji đã thực hiện việc cấm hẳn từ 2 năm nay. Nhiều chùa khác trên toàn quốc cũng đã cấm hẳn viêjc hút thuốc lá, như chùa Shofukuji tại quận Fukuoka và chùa Chosenji tại quận Miyagi. Tuy nhiên một vài chùa không cấm, nhưng ghi rõ những khu vực được phép hút thuốc bên trong chùa. (Yomiuri Shimbun, Mar. 6, 2009) NAM HÀN: Tòa án địa phương Quận cấm các chùa thu lệ phí vào cổng Vào ngày 3-3 toà án Uijeongbu, quận Gyeonggi, đã cấm tất cả chùa chiền thu lệ phí từ những người leo núi. Do vụ một nhóm 22 người leo núi kiện ngôi chùa nhỏ Jajaeam vào tháng 8 năm ngoái, toà án buộc chùa này phải hoàn trả lệ phí leo núi ngang chùa cho họ. Tòa cho rằng có nhiều con đường để leo núi nên không nhất thiết phải qua địa phận chùa chiền. Vì vậy việc thu lệ phí đi ngang chùa là điều thật vô lý. Cộng đồng Phật tử rất bất bình trước quyết định này của toà. Chùa Jajaeam đã nộp đơn kháng án. Chùa này nằm trên khu vực leo núi thuộc vùng Dongducheon, đông bắc quận Gyeonggi. Chùa sở hữu khoảng 95% đất đai xung quanh ngọn núi. Phán xử của toà án sẽ khiến chùa mất khoản thu nhập dành cho việc bảo quản ngôi chùa, đường xá cũng như sinh hoạt chung quanh. Một lãnh đạo của môn phái Tào Khê môn phái lớn nhất Nam Hàncho biết trong trường hợp xấu nhất, chùa sẽ đóng cửa tất cả các con đường dùng để leo núi. (The Korea Times -March 5, 2009) ẤN ĐỘ: Tàu hoả Mahaparinirvan đoạt giải thưởng Du lịch Quốc gia Được ngành hoả xa đưa vào sử dụng từ năm 2007 đến nay, chiếc tàu nhanh Mahaparinirvan nối liền mạng mạch du lịch Phật giáo nổi tiếng đã được nhận giải thưởng Du lịch Quốc gia, vì nó cung cấp cho du khách chuyến du hành an toàn và không gì bằng. Du khách quốc nội và ngoại quốc từ châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ rất ngưỡng mộ lòng mến khách và các dịch vụ tuyệt hảo từ đội ngũ nhân viên của tàu hoả này. Tàu khởi hành từ Delhi qua hành trình 8 ngày đến Bodhgaya, Rajgir, Nalanda, Varanasi, Sarnath, Gorakhpur, Kushinagar, Lumbini- Sravasti và Agra. (Indopia-March 3, 2009) NHẬT BẢN: Kẻ chuyên trộm tượng Phật Tokyo – Kẻ trộm là Itsuo Abe, 59 tuổi, bị cảnh sát bắt sau khi lấy cắp một tượng Phật bằng gỗ có từ thế kỷ 17, cao 70 cm, từ ngôi chùa Kenninji tại cố đô Kyoto. Trong nhà của Abe, cảnh sát tìm thấy 20 tượng Phật khác, đều do ông ta đánh cắp tại mấy chùa khác ở Kyoto trong mấy tháng gần đây. Tất cả các tượng được đặt trong một căn phòng, phía trước là đồ dâng cúng gồm táo và chuối. Abe nói rằng ông ta trộm tượng vì lòng mộ đạo, do thích tượng Phật nên ông ta đem về nhà để hàng ngày cúng bái (!?). Sau vụ việc này, chùa Kenninji đã bố trí nhân viên an ninh đi tuần tra, tăng gấp đôi số camera giám sát (khoảng 30 máy) và cài đặt các bộ cảm biến hồng ngoại trong khuôn viên chùa. (Reuters-March 3, 2009) HOA KỲ: Việc tôn trí tượng Phật Quan Âm tại thành phố Tulsa Tulsa, Oklahoma: Tượng Phật Quan Âm bằng đá granite cao 16,3 mét trên nền móng 2,6 mét theo kế hoạch sẽ được dựng tại chùa Tam Bảo, E. 21st St. Theo mục tiêu dài hạn cho 5 năm tới, một chùa lớn hơn có thể sẽ được xây để phù hợp với pho tượng này. Vào ngày 24 tháng 3, Ủy ban Xét duyệt sẽ xem xét lần cuối về mặt giấy tờ để cho phép dự án được tiến hành trên đất của chùa này. Nói chung, các nơi thờ phụng tại Tulsa phải được sự miễn trừ đặc biệt từ Ủy ban Xét duyệt của thành phố, nếu không toạ lạc tại các khu được qui hoạch về thương mại. Chùa Tam Bảo đã được sự miễn trừ đặc biệt của Ủy ban này vào năm Phật tử đều ước mong việc tôn trí pho tượng, không chỉ vì lợi ích của họ mà còn để thu hút thêm nhiều người Mỹ nữa có quan tâm đến Phật giáo.và tượng cũng sẽ góp phần làm đẹp cho thành phố nữa. (AP, World Staff Writer – March 9, 2009) LÀO: Nạn trộm cắp tượng Phật tại tỉnh Savannakhet Tượng Phật được xem là linh thiêng tại Lào. Nhưng từ tháng đến tháng đã có khoảng 200 tượng Phật bị trộm từ 5 ngôi chùa ở tỉnh Savannakhet, miền nam nước này. Nhiều tượng trong số đó có hơn 100 năm tuổi, giá trị không rõ nhưng tất cả đều là bảo vật thiêng liêng. Ông Khampong, Vụ phó Bộ Thông tin & Văn Hoá Lào cho biết: Số tượng bị trộm là để bán cho các tay sưu tập trong và ngoài nước. Bọn trộm là những thanh niên nghiện ma tuý đang nhắm vào chùa chiền tại các làng mạc hẻo lánh như làng Dong Dok Mai và làng Nakhu ở hai quận Champone và Uthumpone. Cảnh sát đang điều tra, nhưng đến nay họ vẫn chưa bắt được vụ trộm nào. Vào cuối tháng 3 này sẽ có cuộc họp của các quan chức để bàn về việc bảo vệ các tác phẩm điêu khắc Phật giáo có tính chất lịch sử này. (AFP-March 10, 2009) Vương quốc Anh: Viện Bảo tàng Victoria & Albert (V & A) triển lãm điêu khắc Phật giáo Luân Đôn – Viện Bảo tàng V & A sẽ khai trương Phòng triển lãm của Quỹ The Robert H.N. Ho Family vào tháng 4, là phòng triển lãm đầu tiên về điêu khắc Phật giáo tại Vương quốc Anh. Phòng sẽ trưng bày những tác phẩm nổi bật từ bộ sưu tập mang tầm thế giới của V & A về điêu khắc Phật giáo, bao gồm từ các tác phẩm điêu khắc thuộc di tích lớn của chùa Trung quốc cho đến những tượng Phật mạ vàng rất nhỏ. Phòng triển lãm sẽ thuật lại cuộc đời của Đức Phật và về sự truyền bá đạo Phật từ Ấn Độ đến những khu vực khác của châu Á.Những tác phẩm điêu khắc sẽ được sắp xếp theo nhóm địa lý, để nói lên sự đa dạng về sáng tạo nghệ thuật trên khắp châu Á. Điều này phản ảnh sự khác nhau trong tu hành của Phật giáo Ấn Độ, Tích Lan, vùng Hi Mã Lạp Sơn, Miến Điện, Java, Thái Lan, Trung quốc và Nhật Bản. Ngoài những tượng, tranh vô cùng quý giá có cách đây từ vài trăm năm đến hơn một nghìn năm, phòng còn trưng bày bệ thờ Mandalay của Miến Điện cao 3 mét rất ngoạn mục. (Huliq.com- March 10, 2009) Tây Tạng: Cung điện Potala nhận chịu lệnh cấm mới Bắc Kinh, Trung quốc Sau lời kêu gọi của Liên Hi ệp Quốc về bảo tồn tốt hơn môi trường tự nhiên tại Cảnh quan Di sản Thế giới thuộc UNESCO, Trang 20 SỐ RA MẮT

Ứng Dụng Những Lời Phật Dạy Trong Kinh Tạng Pali Cho Sự Thành Công Của Đời Người; Sự Chú Tâm Đặc Biệt Đến Kinh Chuyển Pháp Luân, Kinh Điềm Lành Và Kin

Dạy Phật Pháp Cho Trẻ Em

Hợp Tuyển Lời Phật Dạy Từ Kinh Tạng Pali

Nữ Giới Và Những Lời Phật Dạy

5 Sức Mạnh Của Người Phụ Nữ Theo Lời Phật Dạy

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *