Tagore, nhà thơ của tình yêu và lòng nhân ái

Nhà thơ yêu con người

Rabindranath Tagore không chỉ là đại diện văn hóa tiêu biểu của Ấn Độ, ông còn là nhà thơ châu Á đầu tiên được trao giải Nobel Văn học, là bậc kỳ tài đã để lại cho nhân loại một khối lượng tác phẩm đồ sộ và phong phú.

Chân dung nhà thơ Tagore.

Tuy nhiên, đóng góp xuất sắc nhất của Tagore vào sự phát triển của văn học Ấn Độ và thế giới là lĩnh vực thơ ca. Ông đã làm hơn 1.000 bài với 50 tập thơ, trong đó tập thơ “Lời dâng” (Gitanjali), một tuyển tập gồm những bài thơ về triết lý tôn giáo, được trao giải Nobel Văn học năm 1913. Với tập thơ này, ông được xem là một phát hiện của thơ ca thế kỷ, “một biểu tượng vĩ đại phối hợp trong mình hai nguồn tinh túy Á – Âu”, là “kỳ công thứ hai của tạo hóa sau Kalidasa” – nhà thơ lớn của Ấn Độ thế kỷ thứ V, trong văn học Ấn Độ.

Đối với nhiều nhà thơ Anh lúc bấy giờ, khi đọc tập thơ “Lời dâng” của Tagore, họ vô cùng kinh ngạc. Trong tập thơ, Tagore ca ngợi chúa trời nhưng đấy là chúa đời, chúa của con người, chúa của cái đẹp, chúa nằm trong từng con người bình thường. Tập thơ được đánh giá rất cao và chính các nhà thơ Anh nói rằng, hàng nghìn năm mới sinh ra một con người như vậy.

Bìa tập thơ “Lời dâng” của Tagore.

Tagore đem đến cho thi ca Ấn Độ một không khí thanh sảng, thiêng liêng mà gần gũi, thân tình; biểu đạt những rung động tinh tế trong tâm hồn thi sĩ trước đất nước, quê hương, thiên nhiên, cuộc sống, con người và tình yêu bằng một giọng điệu nồng nàn, tha thiết. Mặt khác, thơ Tagore cũng chứa đựng những triết lý thâm trầm về vũ trụ, con người, cuộc sống, hạnh phúc và tình yêu. Chất trữ tình – triết lí hòa quyện khó mà phân cắt trong một bài thơ của Tagore.

Điểm nổi bật thấm đẫm chất văn trong tư tưởng của Tagore chính là thái độ đề cao con người, phủ nhận thần thánh. Triết học của Tagore là triết lý nhân sinh, lấy nền tảng là tình yêu thương mãnh liệt đối với con người.

Tagore phản ánh cuộc sống khốn cùng của những người dân nô lệ với niềm cảm thông sâu sắc, đồng thời lên tiếng đấu tranh đòi tự do và cuộc sống hạnh phúc cho con người: “Hỡi các dân tộc trẻ/Hãy tuyên chiến vì tự do”.

Tagore đã từng nói, trong cuộc đời ông có 3 thứ phải theo: “Thứ nhất, tôi là người Ấn Độ, tôi theo sự thật; cái gì là sự thật, là chân lý đấy là ông chủ của tôi. Thứ hai, tôi là nhà thơ thì phải yêu cái đẹp; người phụ nữ Ấn Độ, phong cảnh Ấn Độ, tâm hồn người Ấn Độ quá đẹp nên không thể không yêu. Thứ ba, là cái thiện, nếu thiếu cái thiện, ta không phải là con người”.

Có thể nói, với Tagore, vườn đời thật tươi đẹp, được sống trên đời thực sự là niềm vui khi ở đó chứa chan tình yêu giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên.

Nhà thơ tình

Tagore còn được nhắc đến như một nhà thơ tình nổi tiếng thế giới. Nhiều tập thơ của ông xoay quanh đề tài tình yêu: “Người làm vườn” (năm 1914), “Tặng phẩm của người yêu” (năm 1918).

Tagore là nhà thơ châu Á đầu tiên được trao giải Nobel Văn học.

Vậy tại sao người ta lại ca ngợi thơ tình Tagore? Có thể lý giải được ba điều. Điều thứ nhất, ông nói được điều cốt tử nhất – vừa vui lại vừa buồn – có nghĩa là hai người tình nhân dù yêu nhau đến mấy cũng không bao giờ hiểu nhau cả. Thứ hai là, thơ của Tagore rất đề cao người phụ nữ. Hình ảnh người phụ nữ bao giờ cũng tượng trưng cho sự hy sinh, cho sự đẹp đẽ, thầm lặng. Thứ ba là, thơ Tagore vừa ảo, vừa thực. Trong ca ngợi tình yêu ông đã vũ trụ hóa toàn bộ thơ tình của mình. Vì thế khi so sánh người yêu thì ông so sánh “mắt em như sao buổi sớm”, hay “trái tim em ôm tới cả đất trời”.

Tagore qua đời tại Calcutta vào đúng năm ông tròn 80 tuổi, để lại cho nhân loại một di sản đồ sộ gồm trên một nghìn bài thơ, 42 vở kịch, 12 cuốn tiểu thuyết, hàng trăm truyện ngắn, bút ký, tiểu luận cùng hàng ngàn bức vẽ và bài hát…

Thơ của Tagore giàu tinh thần nhân loại, là gạch nối giữa truyền thống văn hóa Ấn Độ và văn hóa hiện đại phương Tây. Sáng tác và hoạt động của Tagore có tác dụng rất lớn đến sự nghiệp giải phóng dân tộc Ấn. Lãnh tụ phong trào giải phóng Ấn Độ Mahatma Gandhi đã gọi ông vừa là “người thầy học vĩ đại”, vừa là “người lính gác vĩ đại” của Ấn Độ.

Rabindranath Tagore không chỉ là đại diện văn hóa tiêu biểu của Ấn Độ, ông còn là nhà thơ châu Á đầu tiên được trao giải Nobel Văn học, là bậc kỳ tài đã để lại cho nhân loại một khối lượng tác phẩm đồ sộ và phong phú.Rabindranath Tagore sinh ngày 7/5/1861 tại Kolkata, Ấn Độ. Ông được cả thế giới tôn vinh là một trong số ít nhân tài toàn diện của thế giới. Ông là nhà viết kịch, nhà thơ, nhạc sỹ, tiểu thuyết gia, nhà giáo dục, triết gia và nhà nhân văn học. Ông sáng tác vở kịch opera đầu tiên – Valmiki Pratibha – khi mới 20 tuổi. Ông sáng tác hơn 2.000 bài hát và sáng tạo nên Rabindra – sangeet – một thể loại âm nhạc Bengal quan trọng mang tên ông. Truyện ngắn và tiểu thuyết của ông giữ một vị trí quan trọng trong nền văn học Bengal. Và có lẽ ông là nhà thơ duy nhất trên thế giới đã sáng tác quốc ca cho cả hai nước: bài Amar Shonar Bangla cho Bangladesh và Jana Gana Mana cho Ấn Độ.Tuy nhiên, đóng góp xuất sắc nhất của Tagore vào sự phát triển của văn học Ấn Độ và thế giới là lĩnh vực thơ ca. Ông đã làm hơn 1.000 bài với 50 tập thơ, trong đó tập thơ “Lời dâng” (Gitanjali), một tuyển tập gồm những bài thơ về triết lý tôn giáo, được trao giải Nobel Văn học năm 1913. Với tập thơ này, ông được xem là một phát hiện của thơ ca thế kỷ, “một biểu tượng vĩ đại phối hợp trong mình hai nguồn tinh túy Á – Âu”, là “kỳ công thứ hai của tạo hóa sau Kalidasa” – nhà thơ lớn của Ấn Độ thế kỷ thứ V, trong văn học Ấn Độ.Đối với nhiều nhà thơ Anh lúc bấy giờ, khi đọc tập thơ “Lời dâng” của Tagore, họ vô cùng kinh ngạc. Trong tập thơ, Tagore ca ngợi chúa trời nhưng đấy là chúa đời, chúa của con người, chúa của cái đẹp, chúa nằm trong từng con người bình thường. Tập thơ được đánh giá rất cao và chính các nhà thơ Anh nói rằng, hàng nghìn năm mới sinh ra một con người như vậy.Ngoài tập thơ “Lời dâng”, Tagore còn có rất nhiều tập thơ khác có giá trị như tập thơ trữ tình “Balaca” (năm 1915), “Mùa hái quả” (năm 1915), “Thơ ngắn” (năm 1922), “Mơhua” (năm 1928) và “Ngày sinh” (năm 1941)…Tagore đem đến cho thi ca Ấn Độ một không khí thanh sảng, thiêng liêng mà gần gũi, thân tình; biểu đạt những rung động tinh tế trong tâm hồn thi sĩ trước đất nước, quê hương, thiên nhiên, cuộc sống, con người và tình yêu bằng một giọng điệu nồng nàn, tha thiết. Mặt khác, thơ Tagore cũng chứa đựng những triết lý thâm trầm về vũ trụ, con người, cuộc sống, hạnh phúc và tình yêu. Chất trữ tình – triết lí hòa quyện khó mà phân cắt trong một bài thơ của Tagore.Điểm nổi bật thấm đẫm chất văn trong tư tưởng của Tagore chính là thái độ đề cao con người, phủ nhận thần thánh. Triết học của Tagore là triết lý nhân sinh, lấy nền tảng là tình yêu thương mãnh liệt đối với con người.Tagore phản ánh cuộc sống khốn cùng của những người dân nô lệ với niềm cảm thông sâu sắc, đồng thời lên tiếng đấu tranh đòi tự do và cuộc sống hạnh phúc cho con người: “Hỡi các dân tộc trẻ/Hãy tuyên chiến vì tự do”.Tagore đã từng nói, trong cuộc đời ông có 3 thứ phải theo: “Thứ nhất, tôi là người Ấn Độ, tôi theo sự thật; cái gì là sự thật, là chân lý đấy là ông chủ của tôi. Thứ hai, tôi là nhà thơ thì phải yêu cái đẹp; người phụ nữ Ấn Độ, phong cảnh Ấn Độ, tâm hồn người Ấn Độ quá đẹp nên không thể không yêu. Thứ ba, là cái thiện, nếu thiếu cái thiện, ta không phải là con người”.Có thể nói, với Tagore, vườn đời thật tươi đẹp, được sống trên đời thực sự là niềm vui khi ở đó chứa chan tình yêu giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên.Tagore còn được nhắc đến như một nhà thơ tình nổi tiếng thế giới. Nhiều tập thơ của ông xoay quanh đề tài tình yêu: “Người làm vườn” (năm 1914), “Tặng phẩm của người yêu” (năm 1918).Thơ số 28 được in trong tập “Người làm vườn”, là một trong những bài thơ tình hay nhất thế giới. Bài thơ khẳng định: tình yêu là sự đồng điệu, hòa hợp, dâng hiến tâm hồn, chia sẻ lẫn nhau. Nhưng trái tim con người, thế giới tâm hồn con người lại mãi là một cõi bí mật lớn lao.Vậy tại sao người ta lại ca ngợi thơ tình Tagore? Có thể lý giải được ba điều. Điều thứ nhất, ông nói được điều cốt tử nhất – vừa vui lại vừa buồn – có nghĩa là hai người tình nhân dù yêu nhau đến mấy cũng không bao giờ hiểu nhau cả. Thứ hai là, thơ của Tagore rất đề cao người phụ nữ. Hình ảnh người phụ nữ bao giờ cũng tượng trưng cho sự hy sinh, cho sự đẹp đẽ, thầm lặng. Thứ ba là, thơ Tagore vừa ảo, vừa thực. Trong ca ngợi tình yêu ông đã vũ trụ hóa toàn bộ thơ tình của mình. Vì thế khi so sánh người yêu thì ông so sánh “mắt em như sao buổi sớm”, hay “trái tim em ôm tới cả đất trời”.Tagore qua đời tại Calcutta vào đúng năm ông tròn 80 tuổi, để lại cho nhân loại một di sản đồ sộ gồm trên một nghìn bài thơ, 42 vở kịch, 12 cuốn tiểu thuyết, hàng trăm truyện ngắn, bút ký, tiểu luận cùng hàng ngàn bức vẽ và bài hát…Thơ của Tagore giàu tinh thần nhân loại, là gạch nối giữa truyền thống văn hóa Ấn Độ và văn hóa hiện đại phương Tây. Sáng tác và hoạt động của Tagore có tác dụng rất lớn đến sự nghiệp giải phóng dân tộc Ấn. Lãnh tụ phong trào giải phóng Ấn Độ Mahatma Gandhi đã gọi ông vừa là “người thầy học vĩ đại”, vừa là “người lính gác vĩ đại” của Ấn Độ.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *