Căn bệnh hiếm gặp Rối loạn Đa nhân cách (Multiple Personality Disorder – MPD), hay tên gọi mới hơn là Rối loạn Tách rời Nhận thức (Dissociative Identity Disorder – DID), là một chủ đề rất thú vị xoay quanh một căn bệnh hiếm gặp.
Có thể bạn thấy nó trên phim ảnh, đọc trong sách báo và thấy căn bệnh này … quá kì diệu để có thể có thực: Làm sao mà trong một cơ thể sống, nhiều nhân cách khác nhau đại diện cho nhiều người khác nhau cùng tồn tại? Phải chăng não bộ con người có thể phá vỡ giới hạn ấy, tạo nên một con người hoàn toàn mới cho vật chủ của mình?
Vậy căn bệnh nhiều nhân cách này là gì?
Nó là một căn bệnh rối loạn tâm lý, sinh ra ÍT NHẤT là hai nhân cách trong cùng một con người. Thông thường, căn bệnh này đi kèm với chứng mất trí nhớ không thể được giải thích bằng việc lãng quên thông thường.
Ví dụ, bạn có thể quên chìa khóa ở chỗ này, chỗ kia hay vô thức lái xe qua một con phố quen mà không nhận ra mình đã làm thế. Nhưng ở người mắc chứng Rối loạn Đa nhân cách (xin phép gọi tắt là Đa nhân cách), họ sẽ không nhớ được mình đã làm gì khi một nhân cách nào đó đang ngự trị. Những lúc đó, họ thường cho là mình đã đi ngủ. Sự mất trí nhớ, việc không nhận thức được những sự việc đã xảy ra trong quá khứ là một đặc điểm chính của căn bệnh và của những người mắc chứng Đa nhân cách.
Bức hình mô tả một bệnh nhân đa tính cách.
Đừng nhầm lẫn, căn bệnh này không hề giống với Triệu chứng Tâm thần phân liệt hoang tưởng. Những người bị tâm thần phân liệt là thường nghe thấy một giọng nói khác trong đầu mình mang đầy vẻ tiêu cực, công kích và nghi ngờ kẻ khác, cho rằng tất cả mọi người đều mang ý xấu. Họ sẽ hành động theo giọng nói ấy, thông thường những hành vi ấy để lại những hậu quả xấu cho xã hội.
Căn bệnh này cũng là một trong những những chứng rối loạn gây nhiều tranh cãi nhất ngành thần kinh học, hiện tồn tại rất nhiều ý kiến khác nhau về phương pháp chẩn đoán cũng như chữa trị chứng Đa nhân cách. Mặc dù chưa có những nghiên cứu dịch tễ học chuyên sâu hay những nghiên cứu chữa trị lâu dài, nhưng đa số họ đều tin rằng đây không phải căn bệnh có thể tự chữa lành theo thời gian.
Triệu chứng bệnh cũng khác nhau trên những bệnh nhân khác nhau. Theo nghiên cứu của Cộng đồng Nghiên cứu Chấn thương và Phân tách tâm lý Quốc tế, thì căn bệnh này tồn tại trong khoảng 1% cho tới 3% dân số toàn cầu, 1% cho tới 5% bệnh nhân tâm thần nội trú tại Châu Âu và Bắc Mỹ mắc chứng này. Bắc Mỹ cũng là nơi xuất hiện những trường hợp mắc chứng Đa nhân cách này nhiều nhất.
Nguyên nhân gây nên chứng bệnh Đa nhân cách cũng không (hoặc là chưa) được xác định rõ ràng, đã có nhiều tranh cãi xoay quanh việc Đa nhân cách hình thành như một phản ứng tự nhiên trước những chấn thương tâm lý khi bệnh nhân còn bé, tạo ra một vỏ bọc bảo vệ bản thân trước những kí ức không mấy tốt đẹp.
Đây cũng là chủ đề thường xuyên được nhắc tới mỗi khi vấn đề pháp luật được đề cập, bởi lẽ trong quá khứ, đã có những trường hợp hiếm gặp, kẻ giết người thoát tội sau khi bác sĩ xác định rằng họ đã mắc chứng bệnh tâm thần đặc biệt này.
Những trường hợp nổi tiếng liên quan tới căn bệnh tâm lý Đa nhân cách trong quá khứ
Mary Kendall và những khoảng trống trong trí nhớ
Nghiên cứu trích từ cuốn sách Consciousness and Intentionality của tác giả Grant Gillett và John McMillan.
Năm 1994, các nhà thần kinh học đã tiến hành nghiên cứu và bàn luận nhiều về vụ việc của một phụ nữ 35 tuổi, cô Mary Kendall. Cô Mary không có nhiều mối quan hệ xã hội, cô dành nhiều thời gian vào việc chăm sóc và giúp đỡ những người khác.
Bản thân cô Mary cũng có một lịch sử dài với những đơn thuốc được bệnh viện cung cấp, bao gồm những cơn đau tay kinh niên. Những cơn đau ấy đã khiến cô tìm tới một bác sĩ thần kinh trị liệu nhờ giúp đỡ.
Trong quá trình điều trị, cô đã thể hiện ra nhiều tính cách khác nhau, một biểu hiện chỉ có ở những bệnh nhân mắc chứng Rối loạn Đa nhân cách. Cùng với việc cô rất dễ bị thôi miên và trí nhớ của cô thường hay có những khoảng trống không thể giải thích được, các bác sĩ lại càng có cơ sở để khẳng định cô Mary là một người Đa nhân cách.
Cô bắt đầu phát hiện ra những khoảng trống trong trí nhớ của mình khi nhận thấy rằng rất nhiều lần bình xăng đầy khi cô trở về nhà, nhưng lại cạn vào buổi sáng hôm sau khi cô lấy xe đi làm. Việc xảy ra thường xuyên đến mức cô bắt đầu ghi lại chỉ số đo quãng đường trên xe. Cô nhận thấy rằng cứ sau một đêm, đồng hồ lại tăng thêm khoảng 80 đến 160 km nhưng cô không nhớ rằng trong đêm mình có đi đâu không.
Khi bác sĩ thực hiện “thôi miên” cô Mary, một giọng nói kì lạ vang lên “Đã đến lúc người ta biết về tôi rồi”. Một tính cách khác đã xuất hiện, có thái độ thù địch hơn hẳn cô Mary quan tâm, chăm sóc với người khác. Tính cách thứ hai mang tên Marian này nói rằng cô ta thường xuyên đi dạo ban đêm để “giải quyết vấn đề cá nhân”.
Nhân cách Marian thứ hai này khinh miệt Mary vì sự yếu đuối của cô: Mary là một kẻ thảm hại, suốt ngày phí thời gian quan tâm tới vấn đề của kẻ khác. Trong suốt quá trình theo dõi, cô Mary đã bộc lộ tổng cộng 6 tính cách riêng biệt, đa số các tính cách ấy đối nghịch với nhau.
Việc các nhân cách giành quyền điều khiển cô Mary diễn ra khá thường xuyên, và thông thường nhân cách Marian không được thân thiện lắm kia là người tạo nên các tình huống đe dọa các nhân cách còn lại, trong số đó có một nhân cách mang suy nghĩ và giọng nói của một đứa trẻ 6 tuổi. Khi bác sĩ tâm lý gợi ý rằng họ muốn trò chuyện kĩ hơn với những nhân cách khác, Marian đã từ chối, rằng “điều đó vi phạm mối quan hệ tin tưởng lẫn nhau giữa bác sĩ và bệnh nhân”.
Trong quá trình điều trị, nhiều ký ức đau buồn về thời thơ ấu bị người cha đánh đập và lạm dụng được khơi dậy, kèm theo một chút hối tiếc rằng Mary đã không thể bảo vệ được những người em khác khỏi tay người cha tàn ác. Mary cũng nhớ lại việc mẹ cô dù ít khi đánh đập cô, nhưng cũng đã bắt cô phải gánh vác việc nhà từ khi còn bé.
Đó cũng là những bằng chứng liên kết việc kí ức đau buồn đã dẫn đến sự hình thành của các tính cách khác nhau trong một bệnh nhân mắc chứng Rối loạn Đa nhân cách.
Sau 4 năm điều trị, một số nhân cách có đôi chút điểm chung đã hòa vào làm một, nhưng bản thân cô vẫn còn bị ảnh hưởng bởi việc tách rời nhân cách và những nhân cách kia vẫn không ngừng đấu tranh với nhau, giành quyền kiểm soát.
Kẻ siết cổ nơi sườn đồi – The Hillside Strangler
Kenneth Bianchi, hay với cái tên tội phạm mà hắn được biết tới – Kẻ siết cổ nơi sườn đồi, là một tên giết người hàng loạt, nổi tiếng với loạt tội ác mà hắn đã thực hiện cùng người họ hàng của mình, Angelo Buono. Hai tên sát nhân đã thực hiện tổng cộng 12 vụ cưỡng hiếp và giết người.
Trong khoảng tháng 10 năm 1977 cho tới tháng Hai năm 1978, cả hai tên đã thực hiện tổng cộng 10 vụ án nội chỉ trong vùng Los Angeles. Đầu tiên, hai tên sát nhân nhằm vào những cô gái phố đèn đỏ và dần dần, chúng chuyển đối tượng sang phụ nữ và những cô gái trẻ. Sau khi gây án, chúng thường để xác nạn nhân dưới những sườn đồi trong khu vực công viên Glendale Hightland, từ đó hình thành cái tên “The Hillside Strangler”.
Sau khi Bianchi chuyển tới New York, hắn đã thực hiện thêm 2 vụ giết người nữa, với cách thức y hệt như với các nạn nhân tại LA. Nhưng do không còn đồng phạm, hắn bất cẩn hơn và đã để lộ mình.
Kenneth Bianchi tại tòa án xét xử.
Ở phiên tòa xét xử mình, Bianchi đã bào chữa cho bản thân mình rằng hắn đã mắc bệnh tâm thần, khẳng định rằng một nhân cách khác mang tên Steve Walker đã ra tay hãm hiếp và hạ sát những người phụ nữ kia. Hành động “giả điên” ấy của hắn thậm chí đã đánh lừa được một số chuyên gia – những người sau đó đã đưa ra chẩn đoán rằng Bianchi đã mắc chứng Rối loạn Đa nhân cách.
Nhưng những nhà điều tra đã nhờ tới một chuyên gia tâm thần học khác để xác định lại vấn đề, tên ông là Martin Orne.
Khi mà bác sĩ Orne gợi ý với Bianchi rằng trong một trường hợp mắc chứng rối loạn này, thì người bệnh sẽ thường phát triển 3 tính cách hoặc nhiều hơn nữa và dựa vào lời phán của bác sĩ, Bianchi đã tự tạo cho mình một tính cách nữa mang tên “Billy”, nhằm để cho các nhà điều tra không nghi ngờ mình.
Sau này, các điều tra viên cũng phát hiện ra rằng cái tên “Steve Walker” là danh tính của một học sinh mà Bianchi đã cố gắng đánh cắp trước đây, khi hắn cố “đóng giả” tính cách mang tên Steve Walker. Cảnh sát cũng tìm thấy nhiều tài liệu liên quan tới các bệnh tâm lý hiện đại, nhằm giúp hắn nghiên cứu và hoàn thiện “vở kịch” của mình hơn, nhằm chuẩn bị cho trường hợp bị bắt.
Việc tính cách thứ 3 xuất hiện một phần đã làm bác sĩ Orne nghi ngờ “căn bệnh” mà Bianchi đang mắc phải. Nhân cách thứ ba, Billy, xuất hiện khi Bianchi bị “thôi miên” và khi đó, hắn ta làm theo sự gợi ý của Orne là hãy tưởng tượng vị luật sư của hắn đang ở trong phòng. Bianchi còn thực sự bắt tay với vị luật sư tưởng tượng đó, một hành vi cực kỳ không bình thường với những người bị thôi miên. Và thế là Orne kết luận rằng Bianchi không mắc chứng Đa Nhân Cách.
Bị vạch mặt, cùng với việc hắn muốn nhận thêm sự khoan hồng từ phía tòa án, Bianchi đã thừa nhận việc giả bệnh cũng như làm chứng trước tội ác của Buono. Cả hai đã bị bỏ tù với những tội ác nêu trên. Buono nhận án chung thân và đã chết trong tù hồi năm 2002; Bianchi cũng nhận án chung thân, đã nộp đơn cam kết xin tha vào năm 2010 nhưng bị từ chối.
Kết
Số người mắc chứng bệnh Rối loạn Tách rời Nhận Thức hay Rối loạn Đa nhân cách không phải là nhiều, nhưng từng đó là đủ để chứng minh căn bệnh này hoàn toàn có thực. Họ cho chúng ta thấy được rằng não bộ con người vẫn là một bộ phận ẩn chứa rất nhiều bí mật hay thậm chí, còn là những tiềm năng mà con người chưa khám phá hết.
Hiện tại, các cụm rạp phim tại Việt Nam đang trình chiếu bộ phim Split – Tách Biệt, một bộ phim rất hay về căn bệnh Đa nhân cách độc đáo này. Bộ phim đến từ đạo diễn M. Night Shyamalan, người vẫn nổi tiếng với những plot twist – những kết thúc phim bất ngờ, sẽ không khiến bạn thất vọng như The Last Airbender ngày nào đâu.