Những cách nói vô tình làm tổn thương người khác
- Sara Nović
- BBC Worklife
2 tháng 7 2021
Nguồn hình ảnh, Getty Images
Tôi không hề buồn khi mình là một người khiếm thính. Tôi thích sự yên ắng xung quanh cũng như nền văn hoá và ngôn ngữ phong phú mà chỉ người khiếm thính được ban tặng.
Khi tôi thấy từ “điếc” trên bất kỳ diễn đàn nào, lòng tự hào về cộng đồng người khiếm thính trong tôi lại trỗi dậy, dường như tôi đang được gọi đích danh, như thể từ đó là tên riêng của tôi vậy.
Do đó, tôi luôn cảm thấy buốt nhói khi biết rằng đối với nhiều người, thì từ “điếc” lại không hề mang ý nghĩa mà tôi yêu thương – mà thực tế là, nó hầu như toàn được gán với những ám chỉ rất tiêu cực.
Ví dụ, trong những bản tin thời sự thế giới – nào là Tiểu bang Nevada đề xuất luật an toàn sử dụng súng, đến lời kêu gọi từ những cao tuổi ở Ontario, và những cảnh báo về an toàn thời tiết ở Queensland các thứ – đều bị mọi người “giả điếc làm ngơ.”
Những kiểu từ ngữ “xúc phạm người khuyết tật” như thế xuất hiện gần như là mọi lúc mọi nơi trong các cuộc trò chuyện: chẳng hạn như đưa ra lựa chọn “ngu ngốc”, “nhắm mắt như mù” trước một vấn đề nào đó, hành động “điên rồ”, hay gọi sếp là “đồ tâm thần”, hay ai đó có một ngày “rối loạn lưỡng cực”.
Và, hầu hết, những người thốt ra những lời này hoàn toàn không hề có ý định xúc phạm bất cứ ai – và phổ biến hơn nữa, họ hoàn toàn không nghĩ rằng những câu nói này lại có thể gây tổn thương ai đó.
Tuy nhiên, với những người khuyết tật như tôi, thì những câu nói thường ngày này lại ít nhiều mang tính xúc phạm.
Chẳng hạn như cụm “giả điếc” hiển nhiên mặc định rằng khiếm thính thì đi đôi với sự phớt lờ (dù cho chúng chẳng liên quan gì đến nhau).
Thế nhưng vượt ra ngoài những cảm nhận cá nhân rất nhiều, những cách diễn đạt như này làm tổn thương sâu sắc đến những người khuyết tật – và ngay cả là với những người sử dụng chúng trong các cuộc nói chuyện hàng ngày.
Không hề là chuyện nhỏ
Khoảng 1 tỷ người trên thế giới – 15% dân số toàn cầu – hiện mắc một số dạng khuyết tật đã được ghi nhận.
Ở Mỹ, tỷ lệ này thậm chí còn lớn hơn, cứ khoảng 4 người thì có 1 người khuyết tật, và Anh quốc cũng báo cáo tỉ lệ tương tự.
Bất kể là các thông số này có lớn đến như thế nào, thì những người khuyết tật vẫn thường xuyên phải chịu sự phân biệt đối xử ở hầu hết mọi tầng lớp xã hội.
Thái độ này, trong tiếng Anh gọi là ableism, có nghĩa là việc phân biệt đối xử và có thành kiến đối với người khuyết tật, tồn tại dưới nhiều hình thức.
Từ cấp độ cá nhân, người có thành kiến và phân biệt đối xử đối với người khuyết tật có thể thể hiện dưới hình thức dùng khuyết tật của một người để gọi người đó, hoặc có hành động bạo lực đối với người khuyết tật.
Từ cấp độ xã hội, sự thành kiến và phân biệt đối xử đối với người khuyết tật có thể là sự bất bình đẳng mà người khuyết tật phải chịu do tác động của luật pháp, chính sách được giới chức ban hành.
Nguồn hình ảnh, Sara Nović
Chụp lại hình ảnh,
Sara Nović thảo luận về bài viết với các học sinh tại Trường Khiếm thính Rocky Mountain, tiểu bang Colorado, Mỹ
Tuy nhiên, đôi lúc việc phân biệt đối xử người khuyết tật cũng có thể là gián tiếp, hoặc thậm chí vô ý, thông qua ngôn ngữ công kích cá nhân.
Chắc hẳn tất cả chúng ta đều luôn muốn suy nghĩ thấu đáo và cẩn thận với những câu chữ mà ta chọn, thế nhưng những ngôn ngữ phân biệt người khuyết tật lại khá dồi dào trong kho tàng từ vựng chung.
Với văn hoá đại chúng hiện nay, có vô vàn ví dụ cho những từ ngữ này, và chắc hẳn gần như chính bạn cũng đều từng sử dụng rồi.
Thông thường, những ngôn ngữ xúc phạm người khuyết tật (được gọi là ngôn ngữ ‘disableist’) xuất hiện trong những từ lóng mà ta hay sử dụng, chẳng hạn như gọi ai đó là “ngu ngốc” hay “đồ què quặt”, hoặc nói những câu cảm thán như, “Ôi tôi đúng là mắc chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế quá đi”.
Mặc dù những lời này nghe có vẻ như không có gì to tát, chỉ là những câu cảm thán thông thường, thế nhưng chúng vẫn có thể gây tổn thương đến người khác.
Jamie Hale, giám đốc điều hành Pathfinders Neuromuscular Alliance, một chức thiện nguyện Anh có trụ sở chính tại London chuyên giúp đỡ những người bị mắc chứng thần kinh cơ bắp và được điều hành bởi những người mắc bệnh này, khuyến cáo rằng những từ ngữ nói trên vẫn sẽ có một số khả năng gây tổn thương người khuyết tật cho dù là người dùng không có ý gì.
“Có một sự thật là khi mọi người sử dụng những ngôn ngữ này, thì những người khuyết tật có thể sẽ cảm thấy mình vô giá trị trong xã hội,” Hale nói. “Thông thường thì cũng không ai cố tình xúc phạm người khuyết tật qua những lời nói này, thế nhưng nó góp phần xây dựng một thế giới quan mà ở đó người khuyết tật là biểu tượng của sự xui xẻo hay tồi tệ.”
Cách sử dụng ngôn ngữ mà khiến cho sự khiếm khuyết trở nên tương đồng với thứ gì đó tiêu cực thì có thể trở thành vấn đề nghiêm trọng trên nhiều phương diện.
Thứ nhất, những từ ngữ này mang lại một hình ảnh không đúng về người khuyết tật.
“Việc nói rằng ai đó như đang ‘bị tê liệt’ bởi điều gì đó thì có lẽ chính là gọi họ là ‘đồ thiểu năng’ hay ‘đồ tàn phế’,” Hale nói. “Nhưng đó không phải là những gì tôi cảm thấy về bản thân mình.”
Sử dụng phép ẩn dụ về người tàn tật cũng là một cách bóp méo hình ảnh của họ.
Chẳng hạn như cụm từ ‘giả điếc’ cổ súy cho những định kiến đồng thời cũng không phản ánh được chính xác tính chất của sự việc đang được trình bày.
Điếc là một trạng thái không tự nguyện, còn những người không bị điếc thì cố tình ‘giả điếc’ để lờ đi những lời đề nghị mà họ nghe được. Việc gán cho họ chữ ‘điếc’ chính là đặt họ vào vị trí thụ động, thay vì xác định họ là những người chủ động trong việc đưa ra các quyết định của chính mình.
Hale nói thêm rằng việc lạm dụng các cách diễn đạt về khuyết tật này để nói theo hướng tiêu cực chính là củng cố cho các cách hành xử, hành động tiêu cực, và ‘châm dầu’ thêm cho những nạn áp chế còn tồn đọng trong xã hội. “Chúng ta xây dựng nên một thế giới với ngôn ngữ mà ta sử dụng, và chừng nào ta vẫn còn thấy thoải mái khi sử dụng những loại ngôn ngữ này, thì ngày đó ta còn tiếp tục tạo nên những xã hội phân biệt đối xử người khuyết tật.”
Nói gì?
Nếu như ngôn ngữ xúc phạm người khuyết tật có thể tai hại đến vậy, thì tại sao chúng lại phổ biến đến thế? Tại sao những người không hề có ý xúc phạm người khuyết tật nhưng vẫn có thể dùng những từ ngữ có tính chất xúc phạm như vậy?
Ngôn ngữ xúc phạm người khuyết tật cũng có tính thông dụng giống như tiếng lóng vậy: mọi người tiện miệng là dùng, bởi vì họ đã quen nghe người khác nói thế, một kiểu bắt chước và lan truyền trong cộng đồng khiến cho những từ này dường như vô hại.
Tuy nhiên, theo Giáo sư Ngôn ngữ học DW Maurer từ Đại Học Louisville thì dẫu là ai cũng có thể tạo ra từ lóng, nhưng chúng chỉ “trở nên thịnh hành khi nhiều người khác cũng bắt đầu sử dụng theo”.
Điều này cho thấy rằng việc những từ lóng mang hình ảnh người khuyết tật trở nên phổ biến ở khắp nơi là khó tránh, bởi vì, xét trên một góc độ nào đó, thì những người sử dụng tin rằng nói thế là đúng.
Mọi người hoàn toàn có thể không hay biết gì về những thành kiến hàm chứa trong suy nghĩ họ, và cứ vô tâm để cho nạn phân biệt đối xử người khuyết tật hiện hữu trong những lời nói thường ngày.
Thế nhưng trên thực tế, những bàn thảo về hậu quả tiêu cực của những từ như “đần độn” chẳng hạn – một từ mà nghĩa ban đầu mô tả một người điếc không thể nói được, nhưng hiện nay đã trở nên phổ biến với nghĩa dèm pha, chỉ những thứ ngu ngốc, hay ám chỉ những người có trí tuệ kém phát triển – đã xuất hiện trong cộng đồng người khuyết tật hàng thế kỷ nay.
Theo bà Rosa Lee Timm, the Maryland, Giám đốc Tiếp thị của tổ chức phi lợi nhuận cung cấp Dịch vụ kết nối trợ giúp người điếc, những cuộc thảo luận này gần như rất ít được công chúng biết đến bởi vì những người lành lặn tin rằng nạn phân biệt đối xử kia không gây tác hại gì, và ngôn ngữ xúc phạm người khuyết tật thì cứ duy trì biện minh cho niềm tin đó.
“Ngôn ngữ phân biệt đối xử người khuyết tật cổ suý cho một nền văn hóa phân biệt. Nó định nghĩa, loại trừ, và gạt người ta ra ngoài lề,” Timm nói.
Bà cũng chia sẻ thêm là điều này cho phép những người lành lặn trở thành những người kẻ bàng quan chỉ biết vô tri trơ mắt nhìn một xã hội phân biệt đối xử người khuyết tật tiếp tục phát triển.
Hiệu ứng boomerang
Mặc dù rõ ràng là những câu từ và các cách biểu đạt này gây tổn hại đến những cộng đồng chịu thiệt thòi trong xã hội, nhưng những người lành lặn thường xuyên sử dụng loại ngôn ngữ này cũng có khả năng bị ảnh hưởng tiêu cực.
“Chuyện gì sẽ xảy ra với nhóm người lành lặn này trong cuộc sống sau này – giảm thính lực, gặp tai nạn, vấn đề sức khoẻ, lão hoá hoặc bất kỳ điều gì – khiến họ không may trở thành người tật nguyền?” Timm chia sẻ. “Đau lòng thay, chính những ngôn ngữ xúc phạm ngày trước họ dùng đã góp phần tạo nên một xã hội bức bách người khuyết tật.”
Nguồn hình ảnh, Getty Images
Chụp lại hình ảnh,
Một trong những cách hiệu quả nhất để tránh xa ngôn ngữ xúc phạm người khuyết tật là thấu hiểu, trò chuyện, và lắng nghe nỗi lòng họ
Timm ghi nhận rằng ‘xã hội’ này ảnh hưởng nặng nề đến lòng tự tôn của người khuyết tật.
“Tiêu chuẩn về cái đẹp là một ví dụ điển hình, xét về sức mạnh tâm lý của ngôn ngữ,” bà chia sẻ. “Là bậc làm cha làm mẹ, nếu như hàng ngày tôi cứ nói ‘ôi chao, sao mà đẹp thế’ hoặc là ‘ối trời, xấu quá,’ thì con tôi sẽ nghe thấy và học theo… Điều này có thể tác động sâu sắc, đặc biệt là nếu chúng tự nhìn nhận bản thân và cảm thấy rằng chúng không đạt được tiêu chuẩn… Tương tự như vậy khi nói về năng lực hành vi.”
Hale cũng đồng tình với ý kiến là những người trước lành lặn mà sau không may bị tật nguyền cũng có thể sẽ bị ảnh hưởng xấu bởi những ngôn ngữ xúc phạm mà chính họ đang dùng.
Timm và Hale cũng ghi nhận rằng tính chất gây bất hoà của ngôn ngữ phân biệt đối xử người khuyết tật thậm chí còn có thể tác động tiêu cực tới cả những người không bao giờ bị tật nguyền.
“Nó làm tổn thương tất cả chúng ta, khi ta phi nhân tính các hình thức tồn tại của con người, và gầy dựng nó hoàn toàn theo hướng tiêu cực,” Hale và Timm nói.
Dỡ bỏ tình trạng dùng ngôn ngữ phân biệt đối xử người khuyết tật
Do các nền tảng phân biệt đối xử người khuyết tật đã ăn sâu trong xã hội của chúng ta, loại bỏ hoàn toàn nó là một điều khó khăn.
Ý thức và hiểu rõ những từ bạn sử dụng mỗi ngày là một bước thiết yếu trong quá trình này. “Việc xoá bỏ việc sử dụng ngôn ngữ xúc phạm đến người khuyết tật không phải là cần khởi đầu bằng ngôn ngữ, mà là bằng cách xây dựng một thế giới không tồn tại tình trạng đó, điều đòi hỏi chúng ta phải thay đổi ngôn ngữ của mình,” Hale nói.
Việc xem xét lại những câu từ của mình và nếu thấy chúng không phù hợp thìvcố gắng thay chúng với những câu từ đồng nghĩa nhưng không mang tính chất xúc phạm – đó sẽ là một khởi đầu tốt. “Hãy suy nghĩ kĩ trước khi nói. Đừng lặp lại một câu nói chỉ vì bạn nghe thấy nhiều người khác từng nói thế mà hãy nghĩ về những gì mà bạn đang thật sự muốn truyền đạt,” Hale nói.
Thông thường, để tránh những từ ngữ nhạy cảm này thì ta có thể chọn những từ ngữ đơn giản và rõ nghĩa hơn – thay vì là những cụm từ như “giả điếc”, thì ta có thể nói “phớt lờ,” hoặc “lựa chọn không tham gia”.
Ngôn ngữ luôn thay đổi không ngừng, vì vậy nỗ lực giảm thiểu tính xúc phạm người khuyết tật trong vốn từ của bạn sẽ là cả một quá trình liên tục thay vì là một chiến thắng chớp nhoáng.
Lúc đầu bạn có thể chưa quen, thế nhưng luôn sát cánh và thăm hỏi ý kiến của người khuyết tật là một cách hiệu quả để cải thiện vốn từ ngữ lành mạnh hơn.
“Lời khuyên của tôi là bạn nên luôn luôn lắng nghe,” Timm nói. “Đặt câu hỏi, tránh vơ đũa cả nắm tất cả mọi thứ, và tập lắng nghe từ những người bị tác động nặng nề nhất. Hãy suy nghĩ xem liệu những từ ngữ mà bạn chọn có làm tổn thương họ thêm không.”
Quá trình này có thể không dễ dàng, thế nhưng chính những sự khó chịu và tổn thương dẫn đến kiểm điểm nghiêm túc đối với bản thân, chính là những chìa khoá mà Hale đã chỉ ra để chung tay loại bỏ các thái độ xúc phạm người khuyết tật.
“Theo tổ chức đấu tranh bình đẳng cho người khuyết tật Scope, thì có khoảng hai phần ba dân số nước Anh cảm thấy ngại ngần khi phải nói chuyện với một người khuyết tật,” Hale chia sẻ. “Tại sao? Nếu bạn có thể lý giải được sự khó chịu của mình, thì bạn đang trên con đường thay đổi nó.”