Nhận định về Truyện Kiều
Tuyển chọn những bài văn hay Nhận định về Truyện Kiều. Với những bài văn mẫu đặc sắc, chi tiết dưới đây, các em sẽ có thêm nhiều tài liệu hữu ích phục vụ cho việc học môn văn. Cùng tham khảo nhé!
Nhận định 1: Nhận xét về Truyện Kiều có ý kiến cho rằng: “Nguyễn Du đã biểu hiện trong tác phẩm một cảm hứng nhân đạo sâu sắc,đẹp đẽ.” (SGK Văn học 11_Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội 1997,trang 43). Bằng sự hiểu biết của em về tác phẩm Truyện Kiều,hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Tinh thần nhân đạo cao cả là nội dung tư tưởng đặc sắc tạo nên vẻ đẹp nhân văn của áng thơ này. Chúng ta vô cùng tự hào về Nguyễn Du, một tâm hồn nhạy cảm trưóc vẻ đẹp của thiên nhiên, một trái tim giàu yêu thương, đồng cảm với tâm tư và số phận của con người, một tài năng lớn về thi ca đã làm rạng rỡ nền văn học cổ Việt. Tinh thần nhân đạo của Nguyễn Du thấm nhuần trong trang thơ Truyện Kiều.
Chủ nghĩa nhân đạo là tư tưởng yêu thương con người, tôn trọng các giá trị của con người. Biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong Truyện Kiều được thể hiện qua sự trân trọng vẻ đẹp của con người, thương xót cho số phận đau thương của con người, tố cáo, phê phán những thế lực chà đạp lên con người và thấu hiểu ước mơ của con người.
Nguyễn Du rất trân trọng vẻ đẹp con người. Nguyễn Du đã dành nhiều ưu ái khi xây dựng chân dung nhân vật. Với Thúy Vân, Nguyễn Du miêu tả tỉ mỉ, chi tiết để dựng nên bức chân dung vừa đáng yêu, thiện cảm, vừa trang trọng, quý phái:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Với Thúy Kiều, Nguyễn Du sử dụng bút pháp “tả mây tô trăng”, “điểm nhãn” để dựng nên bức chân dung sắc sảo, hoàn mỹ, không ngôn từ nào diễn tả hết:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So về tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Nguyễn Du sử dụng thủ pháp ước lệ để xây dựng chân dung nhân vật, nhưng đối với Nguyễn Du, vẻ đẹp của con người không chỉ sánh ngang với thiên nhiên, mà thậm chí vượt qua thiên nhiên, khiến thiên nhiên phải “thua, nhường”, “ghen, hờn” trước sắc đẹp con người.
Cả Thúy Kiều và Thúy Vân đều có đức hạnh đoan trang, đúng mực:
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ đến tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Ở Thúy Kiều sáng lên vẻ đẹp của đạo hiếu:
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh biết ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Và đức tính thủy chung:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Chân trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Thúy Kiều còn có tấm lòng trọng ân nghĩa:
“Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân”
Và một tấm lòng bao dung, độ lượng:
“Tha ra thì cũng may đời
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen
Đã lòng tri quá thì nên”
Tiến bộ hơn các nhà thơ thời Trung Đại, Nguyễn Du còn đề cao người phụ nữ ở phương diện tài năng, ông đã xây dựng một nhân vật Thúy Kiều đa tài, mà tài nào cũng xuất sắc, tuyệt đỉnh:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân”
Thương xót cho số phận đau thương của con người. Đau xót cho thân phận con người bị chà đạp, khinh rẻ, bị biến thành một món hàng để cân đo đong đếm:
“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng
Ngại ngùng dợn gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.”
Nguyễn Du nhập thân vào nhân vật để cảm nhận hết nỗi đau của nhân vật, tác phẩm viết ra như có “máu chảy trên đầu ngọn bút”, thương cảm cho tương lai bất định, nhiều bất an của Kiều nơi lầu Ngưng Bích:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Nguyễn Du đã sử dụng ngòi bút hiện thực để vạch trần bản chất xấu xa của những kẻ bất nhân trong xã hội xưa, những kẻ “buôn thịt bán người”, kiếm sống trên thân xác của những cô gái vô tội, tiêu biểu là Mã Giám Sinh.
Nguyễn Du đã bóc trần cái mác “giám sinh” của họ Mã để cho thấy tính cách vô học, thô thiển của hắn – một kẻ không biết “thương hoa tiếc ngọc”:
“Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh
Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh
Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
Trước thầy sau tớ lao xao
Nhà băng đưa lối rước vào lầu trang
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”
Đồng thời ông cũng phẫn nộ trước bản chất con buôn của họ Mã:
“Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt thử tài quạt thơ
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.
Rằng: Mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”
“Cò kè bớt một thêm hai”
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện một ước mơ cao cả, đó cũng chính là tinh thần nhân đạo của tác phẩm, ước mơ một cuộc sống công bằng, cái thiện được khuyến khích, nâng niu, cái ác phải bị trừng phạt, phải trả giá. Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du là một chủ nghĩa nhân đạo thấm đẫm yêu thương, tình người, lòng tự tôn.
Nhận định 2: Nhà phê bình văn học Hoài Thanh có nhận xét về “Truyện Kiều”: “Có thể nói thiên nhiên trongTruyện Kiều cũng là một nhân vật, một nhân vật thường vẫn kín đáo, lặng lẽ nhưng mấy khi không có mặt và luôn luôn thắm đượm tình người.” (Truyện Kiều – Phê bình và tiểu luận, 1 960). Hãy chọn một số câu thơ tả cảnh trong “Truyện Kiều” để minh họa ý trên.
Thiên nhiên là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ca Việt Nam từ xưa đến nay. Các tao nhân mặc khách, các thi sĩ xưa đến với thiên nhiên để hoà mình vào thiên nhiên, gửi gắm tâm tư tình cảm vào mỗi bức tranh ấy. Mỗi nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng thường tìm đến với người bạn thiên nhiên để soi lòn mình vào tấm gương trong sáng ấy. Không trọng tâm tả thiên nhiên cảnh vật nhưng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du , thiên nhiên trở thành một nhân vật nói hộ tác giả tâm trạng nhân vật. Hoài thanh đã có nhận xét thật đúng về thiên nhiên trong Truyện Kiều: “ Có thể nói thiên nhiên trong Truyện Kiều cũng là một nhân vật, một nhân vật thường kín đáo, lặng lẽ nhưng không mấy khi không có mặt và luôn đượm tình người .”
Khi nói thiên nhiên là một nhân vật, nhà phê bình văn học Hoài Thanh có lẽ muốn nói đến sự có mặt xuyên suốt, chân thực, sinh động và ấn tượng với bạn đoc như những gì Nguyễn Du xây dựng về con người. Điều đó nghĩa là, thiên nhiên không chỉ là cái bình phong , là hình thức để Nguyễn Du ngụ tình mà thiên nhiên là đối tượng thứ nhất có một vẻ đẹp tự thân, hiện lên chân thực, có hồn, thể hiện tình yêu, cái đẹp và tạo vật của thi hào Nguyễn Du. Nguyễn Du đã thể hiện tình yêu thắm thiết với thiên nhiên, tạo vật và qua thiên nhiên, thể hiện tình yêu thắm thiết với cuộc sống con người.
Thiên nhiên đó là một thế giới tuyệt đẹp, một thế giới sinh động với đủ màu sắc, đường nét và những âm thanh. Với một tâm hồn nghệ sĩ giàu sức rung động trước tạo vật quyện hoà dưới ngòi bút trữ tình đằm thắm, thiên tài Nguyễn Du đã để lại cho muôn đời những bóng dáng nên thơ của thiên nhiên trên những trang Kiều. Đọc Truyện Kiều ta được thả mình trong một thế giới tuyệt diệu, thưởng ngoạn và chiêm ngưỡng tất cả những vẻ đẹp tinh tuý của tạo vật. Mỗi chúng ta đều tìm thấy ở Truyện Kiều những nét đặc sắc mang cái “thần” của thiên nhiên :
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”
Một không gian đầy chất thơ, thi vị và hữu tình biết bao nhiêu, sự rộng lớn của đất trời khi mùa xuân về được diễn tả tinh tế và tràn ngập niềm vui . “cỏ non xanh tận chân trời” một màu xanh non, tươi mát của thảm cỏ trải bao la, sắc cỏ tháng ba là sắc xanh non, tơ nõn, mềm mượt êm ái. Trên nền xanh tươi trong trẻo ấy điểm xuyến sắc trắng của vài bông hoa lê. Màu xanh của cỏ, màu trắng của hoa lê hài hoà tuyệt diệu, gợi cảm giác dịu dàng, mát mẻ đặc trưng của mùa xuân.
Khi Thuý Kiều bị đẩy vào lầu Ngưng Bích, trong con mắt nàng, thiên nhiên thật đượm buồn:
“Buồn trông cửa bề chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mấy mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi ‘’
Thiên nhiên hiện hữu trước mắt ta có chân mây mặt biển, có cánh buồm ngoài khơi xa, có tiếng sóng, có nội cỏ dầu dầu, những cánh hoa man mác. Nhưng đó là bức tranh thiên nhiên bát ngát, hoang vắng, đượm buồn nơi lầu ngưng bích .
Thiên nhiên càng trở nên hữu tình, thơ mộng khi Kiều chia tay với Kim Trọng :
‘’ Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha ‘’
Nguyễn Du không cần giá vẽ nhưng đã dựng nên một bức tranh thiên nhiên thật đẹp và hài hoà. Dưới cầu là dòng nước êm đềm chảy, bên cầu là hình ảnh “tơ liễu bóng chiều thiết tha” . Cảnh vật gắn bó, tôn nhau lên, chiếc cầu nhỏ như làm đẹp cho dòng nước và dòng nước làm cho chiếc cầu càng trở nên xinh xắn đáng yêu hơn.
Đó còn là cảnh thu đã nhuốm màu quan san khi Thuý Kiều chia tay Thúc Sinh :
“ Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”
Một bức tranh thiên nhiên bao la, bát ngát với “rừng phong thu”. Cả một miền quan san – cửa ải núi non trùng điệp bỗng chốc nhuốm bởi màu sắc đỏ ối của rừng phong. Đây không phải là nơi quan ải thế nhưng lứa đôi chia tay thì cả rừng phong như nhuốm màu biệt li cách trở. Giữa hai người là một vùng quan san hiện ra ảm đạm, hoang biệt, buồn thấm thía .
Đọc Truyện Kiều, ta nhớ mãi bức tranh tứ bình về trăng, hoa, gió, tuyết :
“ Đòi phen gió tựa, hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu “
Ta quên sao được sự chuyển vần của bốn mùa trong nỗi đau nặng trĩu lòng người :
“ Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn, đông đà sang xuân “
Thiên nhiên trong Truyện Kiều rất đỗi quen thuộc với tâm hồn con người Việt Nam. Nhà thơ như một hoạ sĩ tài ba , phối sắc tạo hình, dựng cảnh … đều đem đến cho người đọc nhiều rung cảm. Mùa xuân với :
“ Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Mùa hè với tiếng chim quyên và hoa lựu đỏ :
“ Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông”
Khác với các nhà thơ miêu tả mùa hè với những ánh nắng vàng rực rỡ, tiếng ve sầu tái tê, hoa phượng đỏ rực trời, bức hoạ mùa hè trong thơ Nguyên Du hiện ra trong đêm dưới ánh trăng vàng, âm thanh réo rắt gọi mùa. Cái rực rỡ của ánh mặt trời được thay bằng gam màu của lựu, như đang phun ra từng luồng ánh sáng rõ, mờ, biến hoá, sống động thần tiên. Thiên nhiên như khiêu gợi con người đi tìm cái đẹp vốn có của thiên nhiên và của chính con người.
Mùa hạ rực rỡ sắc màu của lựu, rộn ràng bởi tiếng chim kêu, mùa thu trong Truyện Kiều lại thơ mộng hữu tình và thi vị biết bao :
“ Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng “
Từ “long lanh” mở đầu hai câu thơ đã hé mở một không gian lung linh, huyền ảo của bóng nước. Bức tranh mùa thu ở đây có một vẻ đẹp lồng kết, hoà quyện của ánh sáng, hình ảnh, hoà cùng sắc màu soi chiếu lẫn nhau đã thể hiện sự trong xanh của nước và gợi tả cả chiều cao, sự rộng lớn của đất trời .
Những hình ảnh “cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia” , những nhánh liễu mềm “lơ thơ tơ liễu buông mành” những con đường “lối mòn cỏ nhợt màu sương” .. ta vẫn thấy quanh ta, thân thiết, gần gũi.
Qua cách miêu tả thiên nhiên, Nguyễn Du cho thấy một tâm hồn thiết tha, yêu sự sống, yêu tạo vật, một linh hồn “mang thiên cổ”, một sự nhạy cảm tinh tế, tài hoa, khác thường. Sáng tác của Nguyễn Du đã dạy người đọc cách mở rộng lòng mình với tạo hoá, với cái đẹp, dạy chúng ta biết sống yêu đời.
Nguyễn Du đã từng nói :
‘Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ’
Thiên nhiên trong Truyện Kiều không chỉ là cái nền, cái khung cảnh cho nhân vật mà òn thể hiện tình cảm của ông với con người, thế nên thiên nhiên ấy thắm đượm tình người.
Tả cảnh ngụ tình là một trong những phương pháp quen thuộc và hiệu quả của các nhà văn, nhà thơ từ xưa đến nay. Những bức tranh thiên nhiên trong Truyện Kiều đã trở thành một bút pháp để Nguyễn Du miêu tả, khắc hoạ số phận, tính cách nhất là nội tâm nhân vật, khiến cho nhân vật của ông hiện lên thật sinh động, chân thực, đem đến sự đồng cảm sâu sắc.
Bức tranh mùa xuân là xúc cảm đẹp của nội tâm hai nàng Kiều và cũng là ước mơ , khát vọng của Nguyễn Du về tuổi trẻ, hạnh phúc, sự bình an. Đó còn là nỗi buồn tan cuộc , cõi lòng vấn vương … một cách đặc biệt gợi cảm, thấm thía :
‘’Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang“
“Tà tà” với hình ảnh trời chiều gọi ra nhịp vận động chậm rãi, từ từ như muốn níu giữ lại một chút khoảnh khắc tươi đẹp của ngày xuân trước khi chìm hẳn vào bóng đêm. Có lẽ hình ảnh bóng chiều tà này cũng đồng điệu với tâm trạng của chị em Thuý Kiều khi trở về từ lễ hội mùa xuân. Từ “nao nao” trong câu thơ diễn tả thế chảy của dòng nước nhưng cũng đồng thời diễn tả nỗi bâng khuâng, luyến tiếc như có một linh cảm điều gì đó sắp xảy ra đó là cảnh và người sẽ gặp: nấm mồ Đạm Tiên, chàng thư sinh “phong tư tài mạo tót vời” – Kim Trọng. Sáu câu thơ được coi là đoạn thơ hay, tiêu biểu cho bút pháp tả cảnh ngụ tình của đại thi hào Nguyễn Du.
Trong Truyện Kiều, thiên nhiên cũng là một nhân vật trữ tình. Mỗi lần thiên nhiên xuất hiện, câu thơ lại trở nên lung linh giúp cho nhân vật trữ tình bộc lộ tâm trạng của mình :
“Buồn trông cửa bề chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mấy mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi ‘’
Nỗi buồn trong Kiều thật mênh mang, rợn ngợp, một nỗi buồn khiến lòng người khô héo. ‘Nội cỏ’ ở đây cũng ‘rầu rầu’ , cũng mang tâm sự nỗi lòng của Kiều. Đó là nỗi buồn vì cuộc đời đang bị xô đẩy, vùi dập. Nỗi buồn đó cứ ngày càng tăng, càng ngày càng chất ngất, khơi gợi nỗi niềm tủi nhục đau thương đến ứa nước mắt. Tầm nhìn của Kiều hướng từ xa đến gần, từ cao đến thấp, mong mỏi kiếm tìm một sự đáp vọng nhưng âm thanh duy nhất đáp lại nàng là tiếng sóng ầm ầm, nó không làm cho không gian vang động hơn mà càng khắc sâu thêm tâm trạng đau đớn lẫn dự cảm lo âu về tương lai của Kiều. Cảnh ở đây mênh mang, rợn ngợp mang tâm sự u hoài của lòng người.
Nguyễn Du đã dành cho thiên nhiên một tình yêu nồng hậu với tất cả trái tim đa cảm của người nghệ sĩ thiên tài, tình người ẩn sau trong cảnh vật. Đó là cảnh Kim Trọng sau khi hộ tang về tìm lại Kiều, nhưng người xưa nay còn thấy đâu, chỉ còn cảnh vườn hoang cỏ dại, lạnh lùng dưới ánh trăng :
‘Đầy vườn cỏ mọc lau thưa
Song trăng quạnh quẽ , vách mưa rã rời’
Lần thứ hai Kim Trọng tìm về nhà Vương Viên ngoại để hỏi thăm Kiều thì bấy giờ cảnh vật nhà thật khác, sân ngoài cỏ hoang mọc dại, ướt đầm dưới cơn mưa, tiêu điều như nỗi buồn tênh trong lòng chàng :
‘Một sân đất cỏ dầm mưa
Càng ngao ngán nỗi càng ngơ ngẩn dường’
Thiên nhiên có mặt , trở thành bút pháp, đã góp phần thể hiện sâu sắc âm vang những suy nghĩ của Nguyễn Du về con người. Sử dụng thiên nhiên như một nét bút pháp đòi hỏi ở Nguyễn Du tâm hồn yêu thiên nhiên đằm thắm và sự tài hoa, tinh tế của ngòi bút. Ngòi bút của Nguyễn Du đã trở thành đỉnh cao của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong nền thơ ca dân tộc.
Có thể nói thiên nhiên luôn là hình ảnh thật gần, gắn bó với mỗi chúng ta, nó không chỉ là khung cảnh gần gũi trong cuộc sống đơi thường mà đi vào văn học, cụ thể vào Truyện Kiều. Nguyễn Du đã mượn thiên nhiên làm nền cho truyện và cũng biến thiên nhiên thành 1 nhân vật mang tâm sự, nỗi lòng của con người. Ngòi bút thơ của Nguyễn Du tài hoa, điêu luyện khi dựng lên hình ảnh thiên nhiên. Thiên nhiên mãi là hình ảnh, là nhân vật không thể thiếu trong Truyện Kiều. Đúng như Hoài Thanh đã nói : ‘Thiên nhiên trong Truyện Kiều cũng là một nhân vật, một nhân vật thường kín đáo, lặng lẽ nhưng không mấy khi không có mặt và luôn luôn thấm đượm tình người’
Nhận định 3: Nhận xét về truyện Kiều của Nguyễn Du Mộng Liên Đường chủ nhân viết nguyễn du là người có” con mắt trông thấu cả 6 cõi, có tấm lòng suốt cả nghìn đời”. Dựa vào đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích làm sáng tỏ ý kiến trên.
Kể đến những tác giả, tác phẩm xuất sắc của văn học trung đại Việt Nam, ta nghĩ ngay đến Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều của ông. Với tấm lòng nhân đạo tha thiết và tài năng văn học kiệt xuất, Nguyễn Du để lại ấn tượng sâu sắc qua những sáng tác của ông, đặc biệt là Truyện Kiều.
Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên (1765 – 1820), quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Xuất thân trong gia đình quý tộc, nhiều đời làm quan, có truyền thống văn chương. Cha là Nguyễn Nghiễm làm tới tể tướng dưới triều Lê, cũng là người giỏi văn chương. Mẹ là bà Trân Thị Tân người con gái xứ Kinh Bắc. Anh khác mẹ (con bà chính) Nguyễn Khản làm tới Tham Tụng, Thái Bảo trong triều. Nguyễn Du sống ở thời đại đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam, đó là sự kì khủng hoảng trầm trọng, giai cấp thông trị thối nát, tham lam, tàn bạo, các tập đoàn phong kiến (Lê – Trịnh- Nguyễn) chém giết lẫn nhau. Nông dân nổi dậy khởi nghĩa ở khắp nơi, đời sống nhân dân khổ cực, nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra, tiêu biểu là phong trào Tây Sơn mà đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Huệ. Những yếu tố này tác động nhiều tới tình cảm, nhận thức của Nguyễn Du. Ông sớm lâm vào cảnh mồ côi (9 tuổi cha mất, 12 tuổi mẹ mất), phải sống phiêu bạt nhiều năm, nhiều nơi, lúc ở Thăng Long, lúc lại vào quê nội Hà Tĩnh, có giai đoạn về quê vợ ở Thái Bình. Những biến động lịch sử và cuộc đời đó đã tác động nhiều đến tâm hồn và tư tưởng của Nguyễn Du. Bởi thế ông cũng có nhiều tâm trạng: trung thành với nhà Lê, chống quân Tây sơn, sau này làm quan triều Nguyễn nhưng lại rụt rè, u uất. Có thể nói cuộc đời ông chìm nổi, gian truân, đi nhiều nơi, tiếp xúc nhiều hạng người, đời từng trải, vôn sông phong phú, có nhận thức sâu rộng, được coi là một trong năm người giỏi nhất nước Nam lúc bấy giờ. Ông còn là người có trái tim giàu lòng yêu thương, cảm thông sâu sắc với những người nghèo khổ, với nhũng đau khổ của nhân dânệ Nguyễn Du nổi tiếng trước hết bởi cái tâm của một người luôn nghĩ đến nhân dân, luôn bênh vực cho những cuộc đời. nhữne số phận éo le, oan trái, đặc biệt là thân phận người phụ nữ.
Nguyễn Du cũng là người có năng khiếu văn học bẩm sinh, bậc thầy trong việc sử dụng tiếng Việt, ngôi sao chói lọi trong nền văn học trung đại Việt Nam. Về sự nghiệp, văn học Nguyễn Du có nhiều sáng tạo lớn cả về chữ Hán và chữ Nôm. Các sáng tác chữ Hán có Thanh Hiên thi tập (78 bài), Bắc hành tạp lục (125 bài), Nam trung tạp ngâm (40 bài)… sáng tác chữ Nôm có Vân chiêu hồn, Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, tiêu biểu là tác phẩm Truyện Kiều hay còn gọi là Đoạn trường tân thanh.
Truyện Kiều ra đời đầu thế kỉ XIX (khoảng từ 1805 – 1809), lúc đầu có tên là “Đoạn trường tân thanh” (Tiếng kêu mới đứt ruột), sau này đổi thành “Truyện Kiều”. Tác phẩm viết dựa trên cuốn tiểu thuyết “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc) nhưng đã có sự sáng tạo tài tình và thay đổi, bổ sung nhiều yếu tố trong cốt truyện cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Là truyện thơ Nôm được viết bằng thơ lục bát, dài 3254 câu, chia làm 3 phần (Gặp gỡ và đính ước; Gia biến và lưu lạc; Đoàn tụ). Đề tài của truyện là viết về cuộc đời Kiều nhưng thông qua đó tố cáo xã hội phong kiến lúc bấy giờ đã chà đạp, xô đẩy người phụ nữ vào bước đường cùng; đồng thời ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của Thuý Kiều và của người phụ nữ nói chung. Tác phẩm còn thể hiện rất rõ hiện thực cuộc sống đương thời với “con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ tới muôn đời” của nhà thơ.
Truyện Kiều kể về cuộc đời truân chuyên của người con gái tài sắc Thuý Kiều. Thuý Kiều là một cô gái sinh trưởng trong gia đình họ Vương có ba chị em: Thuý Kiều, Thuý Vân và Vương Quan. Kiều là người con gái tài năng và nhan sắc thuộc bậc trên người. Nàng còn là người con hiếu nghĩa. Trong hội đạp thanh, Kiều gặp Kim Trọng, họ đã yêu nhau sau đó đính ước. Khi Kim Trọng về Liêu Dương hộ tang chú, gia đình Kiều gặp tai biến, Kiều phải bán mình chuộc cha. Mã Giám sinh mua Kiều về Lâm Tri. Tú Bà lập mưu biến nàng thành gái lầu xanh. Thúc Sinh chuộc Kiều và cưới nàng làm vợ lẽ. Nàng lại bị Hoạn Thư – vợ Thúc Sinh sai lính đến bắt về làm hoa nô và bày trò đánh ghen. Nàng trốn khỏi nhà Thúc Sinh. Nhưng lại rơi vào tay Bạc Bà, Bạc Hạnh phải vào lầu xanh lần thứ hai. Tại đây, Kiều gặp Từ Hải – một anh hùng “đội trời, đạp đất”, chàng chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, giúp Kiều báo ân, báo oán. Kiều lại mắc mưu Hồ Tôn Hiến, Từ Hải bị chết đứng. Kiều bị ép lấv viên thổ quanể Nhục nhã, đau đớn, nàng nhảy xuống sông Tiền Đường tự tư. được sư Giác Duyên cứu và đi tu. Kim Trọng trở lại sau nửa năm, chàng kết duyên với Thuý Vân theo lời trao duyên của Kiều.Sau này, Kim Trọng và Vương Quan đã bỏ nhiều công sức tìm Thúy Kiều. Rất may họ đã gặp lại Thuý Kiều, Kiều được đoàn tụ với gia đình và Kim Trọng sau mười lăm năm lưu lạc.
Nhận định 4: Khi bàn về Truyện Kiều của Nguyễn Du, Mộng Liên Đường chủ nhân cho rằng: “Máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột”. Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng hiểu biết của mình về Truyện Kiều, em hãy làm sáng tỏ điều đó.
Mở bài:
Truyện Kiều là kiệt tác văn học của thiên tài Nguyễn Du và của nền văn học dân tộc. Yêu tố làm nên giá trị Truyện Kiều không chỉ ở tài nghệ thi ca, số phận con người mà còn ở tấm lòng của thi hào dành cho con người và cuộc đời. Đọc Truyện Kiều ta như thấy “máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột” (Mộng Liên Đường chủ nhân)
Thân bài:
Ý kiến trên thể hiện nỗi xót thương của Nguyễn Du cho những kiếp người tài hoa bạc mệnh – một phương diện chủ yếu trong chủ nghĩa nhân đạo của ông.
Truyện Kiều là tiếng lòng xót thương cho cuộc đời đầy bi kịch của Kiều:
Kiều vốn là một cô gái tài sắc vẹn toàn lại bị lừa gạt và bị bán vào lầu xanh, phải chấp nhận cuộc đời đắng cay, tủi nhục. Nàng vì chữ hiếu đã phải hi sinh mối tình đầu đẹp đẽ, trong sáng và thơ mộng của mình với Kim Trọng, phải chịu cảnh lưu lạc, rời bỏ cuộc sống “êm đềm trướng rủ màn che”.
Số phận bạc mệnh của Kiều vừa đau xót cho bản thân mình, vừa đau xót cho tình yêu dang dở, vừa đau xót vì phải xa lìa người thân. “Truyện Kiều” chính là tiếng nói thương cảm, là tiếng khóc đau đớn trước số phận bi kịch của con người. Thúy Kiều là nhân vật mà Nguyễn Du yêu quý nhất. Khóc Thúy Kiều, Nguyễn Du khóc cho những nỗi đau lớn của con người : tình yêu tan vỡ, tình cốt nhục lìa tan, nhân phẩm bị chà đạp, thân xác bị đày đọa…
Phân tích cảnh ngộ và tâm trạng của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích
Cảm nhận vẻ đẹp của Thúy Kiều qua đoạn thơ: “Kiều càng sắc xảo mặn mà…”
Chứng minh nghệ thuật tả người bậc thầy của Nguyễn Du qua đoạn trích Chị em Thúy Kiều
Truyện Kiều là tiếng nói lên án, tố cáo, đấu tranh đòi quyền sống cho con người:
Truyện Kiều là bức tranh hiện thực về một xã hội bất công tàn bạo, là lời tố cáo xã hội phong kiến chà đạp quyền sống của con người, đặc biệt là những người tài hoa, người phụ nữ. Đó còn là bản án tố cáo các thế lực đen tối trong xã hội phong kiến, từ bọn sai nha, quan xử kiện, cho đến “họ Hoạn danh gia”, “quan Tổng đốc trọng thần”, rồi là bọn ma cô, chủ chứa,… đều ích kỉ, tham lam, tàn nhẫn, coi rẻ sinh mạng và phẩm giá con người.
Xã hội phong kiến bất công không trân trọng tài sắc của con người, đặc biệt là người phụ nữ (“Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”, “Chữ tài liền với chữ tai một vần”). Đồng tiền tác oai tác quái làm lung lạc lòng người khiến cho kiều bị biến thành một món hành không hơn không kém. Đồng tiền đã làm tha hóa con người, vì tiền con người sẵn sàng giẫm lên lương tâm con người và xóa mờ công lí.
Kiều rơi vào lầu Ngưng Bích trước hết bởi tên quan xử kiện “Có ba trăm lạng việc này mới xuôi”; Mã Giám Sinh, Tú Bà cũng vì tiền mà đẩy Kiều vào lầu xanh; tài sắc như Kiều cũng chỉ là một món hàng để người ta “Cò kè bớt một thêm hai/Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm”.
Truyện Kiều đề cao con người từ vẻ đẹp hình thức, phẩm chất đến những ước mơ, những khát vọng chân chính.
Hình tượng nhân vật Thúy Kiều tài sắc vẹn toàn, hiếu hạnh đủ đường là nhân vật lí tưởng, tập trung những vẻ đẹp của con người trong cuộc đời. Dù lưu lạc trong nhân gian đến mười lăm năm và ném trải không biết bao nhiêu tủi nhục, Thúy Kiều vẫn giữ vững niềm tin đối với gia đình. Tình yêu của nàng đối với Kim Trọng trong chừng áy năm vẫn không hề mòn khuyết. Tuy cuối cùng không thể tái hợp nhưng tấm lòng của Kiều dành cho Kim hết sức nồng nàn.
“Truyện Kiều” còn là bài ca về tình yêu tự do, trong sáng, chung thủy, là giấc mơ về tự do và công lí.
Bước chân “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” của Kiều đến với Kim Trọng đã phá vỡ những quy tắc thánh hiền về sự cách biệt nam nữ. Qua hình tượng Từ Hải, Nguyễn Du gửi gắm ước mơ anh hùng “đội trời đạp đất” làm chủ cuộc đời, trả ân báo oán, thực hiện công lí, khinh bỉ những “phường giá áo túi cơm”.
Nhận định trên hoàn toàn đúng đắn, đã chỉ ra được một phương diện chủ yếu của giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Đó là nỗi xót thương cho những kiếp người tài hoa bạc mệnh, đặc biệt là người con gái tài sắc như Kiều.
Truyện Kiều đã phản ảnh sinh động xã hội thời đại của tác giả, khi mà chế độ phong kiến đang suy thoái đã bộc lộ đầy đủ tính chất mục nát, vô nhân, và các tầng lớp nhân dân đã bị dồn đến bước đường cùng. Cảm hứng hiện thực của tác phẩm được kết tinh vào nhân vật trung tâm Thúy Kiều tài sắc và đa nạn.
Xây dựng hình tượng Thúy Kiều và nhiều nhân vật bất hạnh khác trong tác phẩm, tác giả một mặt đã thể hiện lòng thương vô hạn đối với các nạn nhân; đồng thời đã tố cáo, lên án và phản kháng mạnh mẽ mọi thế lực bạo tàn chà đạp lên thân phận con người, nhất là người Phụ nữ. Điều đó đã đưa tinh thần nhân đạo của thời đại lên đỉnh cao mới. Đọc Truyện Kiều, ta như thấy “máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột”.
Kết bài:
Nguyễn Du đã viết truyện Kiều bằng cả tâm hồn mình, bằng tất cả tình yêu thương đối với con người và cuộc đời. Học giả Phạm Quỳnh từng nhận định: “Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn”. Với giá trị tồn chứa trong mình, Truyện Kiều xứng đáng là một viên ngọc sáng ngời, là một di sản quý báu của nền văn hóa Việt Nam.
Nhận định 5: Khi bàn đến ngôn ngữ Truyện Kiều, Hoài Thanh có viết: “Người đọc xưa nay vẫn xem Truyện Kiều như một hòn ngọc quý cơ hồ không thể thay đổi, thêm bớt một tí gì, như một tiếng đàn lạ gần như không một lần lỡ nhịp ngang cung”. Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Dựa vào “Truyện Kiều” hãy làm rõ tài năng ngôn ngữ của Nguyễn Du và lý giải vì sao Nguyễn Du có được những thành tựu ấy.
I. Mở bài:
– Giới thiệu, dẫn dắt vấn đề
– Trích dẫn ý kiến: “Người đọc xưa nay vẫn xem Truyện Kiều như một hòn ngọc quý cơ hồ không thể thay đổi, thêm bớt một tí gì, như một tiếng đàn lạ gần như không một lần lỡ nhịp ngang cung”.
II. Thân bài
1. Giải thích ý kiến Hoài Thanh
a. Giải thích các hình ảnh so sánh
– “Hòn ngọc quý” cơ hồ không thể thay đổi thêm bớt: ngôn ngữ “Truyện Kiều” đẹp đẽ đến mức hoàn thiện.
– “Tiếng đàn lạ gần như không một lần lỡ nhịp ngang cung”: ngôn ngữ “Truyện Kiều” phong phú, chính xác, sáng tạo, đầy biến hoá.
b. Hoài Thanh đánh giá rất cao về ngôn ngữ “Truyện Kiều”, về tài năng Nguyễn Du qua cách diễn đạt giàu hình ảnh bằng nghệ thuật so sánh: Nguyễn Du là bậc thầy về ngôn ngữ thơ ca.
2. Chứng minh tài năng ngôn ngữ của Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”.
– “Truyện Kiều” có nhiều con người, nhiều sự kiện, nhiều cảnh vật, nhiều tâm trạng khác nhau, thậm chí đối lập lẫn nhau, nhưng Nguyễn Du có đầy đủ vốn liếng ngôn ngữ để biểu đạt con người, sự kiện, tâm trạng
a. Tả người
– Nghệ thuật khắc hoạ tính cách nhân vật qua vài nét miêu tả ngoại hình, lời nói… của Thuý Vân, Thuý Kiều, Mã Giám Sinh, Hoạn Thư, Từ Hải.
– Tả theo bút pháp ước lệ tượng trưng và bút pháp cụ thể hóa
b. Tả cảnh: tả cảnh thiên nhiên
c. Tả tâm trạng
– Nghệ thuật miêu tả tâm trạng Thuý Kiều: nhớ người yêu, nhớ cha mẹ.
d. Những điểm tinh vi tế nhị của ánh trăng, cảnh chiều, lòng người,… trong từng hoàn cảnh, tình huống.
3. Lí giải nguyên nhân thành công của Nguyễn Du
a. Nguyễn Du đã kế thừa, phát huy những khuynh hướng sáng tạo ngôn ngữ khác biệt
– Tiếp tục kế thừa ngôn ngữ văn học dân gian, đặc biệt là thành ngữ, tục ngữ và ca dao.
– Tiếp nhận ngôn ngữ văn học nước ngoài, từ hệ thống thuật ngữ, khái niệm triết học của Lão – Trang, Phật, Nho đến nguồn điển cố, thi liệu giàu có, phong phú của văn học Trung Quốc.
– Dù tiếp thu từ truyền thống hay từ ngoại lai, Nguyễn Du luôn có tính sáng tạo độc đáo.
b. Tài năng ngôn ngữ của Nguyễn Du qua quá trình học tập trau dồi.
Với sự học hỏi và sáng tạo độc đáo của Nguyễn Du, ngôn ngữ Truyện Kiều mang phong cách của một cá tính nghệ thuật, đưa Nguyễn Du lên vị trí bậc thầy trong ngôn ngữ thơ ca cổ điển, đồng thời để lại cho ngày nay nhiều bài học quý giá trong vận dụng và sáng tạo nghệ thuật nói chung và ngôn ngữ nói riêng.
III. Kết bài:
– Hàng trăm năm qua Truyện Kiều đã sống chan hoà trong đời sống của toàn dân tộc, chinh phục được rộng rãi tình cảm của đông đảo người đọc bởi nội dung phong phú và sâu sắc, chứa đựng tinh hoa của ngôn ngữ dân tộc.
—/—
Với các bài văn Nhận định về Truyện Kiều do Top lời giải sưu tầm và biên soạn trên đây, hy vọng các em sẽ có thêm những góc nhìn mới mẻ và có cái nhìn tổng quát hơn về tác phẩm. Chúc các em làm bài tốt!