Nhận định về Tố Hữu
Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Nhận định về Tố Hữu. Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp chi tiết, đầy đủ từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học sinh trên cả nước. Mời các em cùng tham khảo nhé!
Nhận định 1: Thơ của Tố Hữu là hình thức tươi đẹp của hoạt động cách mạng
Nhà phê bình Hoài Thanh khi nhận định về thơ Tố Hữu có viết: “Thái độ toàn tâm, toàn ý vì cách mạng là nguyên nhân chính đưa đến thành công của thơ anh”. Nhận định của nhà thơ rất đúng với cuộc đời và sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu. Với nhà thơ Tố Hữu thơ ca và đời sống không hề mâu thuẫn với nhau, sống là hành động, mà thơ cũng là hành động. Thơ của Tố Hữu là hình thức tươi đẹp của hoạt động cách mạng, của đời sống.
Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca Việt Nam, nhà thơ có phong cách độ đáo: Trữ tình chính trị. Những đặc điểm của phong cách ấy đã in đậm trên từng tác phẩm, và con đường cách mạng của ông. Tố Hữu trước hết là một chiến sỹ yêu nước, ông lấy lý tưởng cộng sản để làm cảm hứng cho các sáng tác của mình. Vì vậy, với ông thơ trước hết phải là phương tiện đắc lực phục vụ cho sự nghiệp cách mạng, cho những nhiệm vụ chính trị được hình thành trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Với ông, thơ chính trị đã trở thành thơ trữ tình sâu sắc.
Lý tưởng cộng sản chính là ngọn nguồn của mọi cảm hứng sáng tạo trong thơ Tố Hữu. Nó chi phối từ quan niệm nghệ thuật đến đề tài, chuyển đề, cảm xúc và cả các hình tượng nhân vật trữ tình. “Với Tố Hữu tả cảnh hay tả tình, khóc mình hay khóc người, viết về vấn đề lớn hay nhỏ đều là để nói cho hết cái lý tưởng cộng sản ấy thôi” – Chế Lan Viên.
Nếu như trong tập thơ “Từ ấy” chúng ta thấy lý tưởng cộng sản được thể hiện thật đẹp đẻ sinh trong hình ảnh mặt trời chân lý và cảnh ngày mai tương sáng. Sự giác ngộ cách mạng mang lại cho nhà thơ một cảm hứng lãng mạn, xây dựng nên một hình tượng trữ tình mới – người thanh niên cộng sản:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim…”
Con đường sự nghiệp văn chương của ông gắn liền với cách mạng. Mỗi thời khắc lịch sử của dân tộc đều được ông lấy làm cảm hứng sáng tác trong thơ ca của mình. Đọc thơ ca của ông chúng ta có thể thấy sự đổi thay của cách mạng Việt Nam qua từng thời kỳ. Lý tưởng cộng sản của ông cũng dần được định hình rõ nét qua từng tác phẩm tạo nên dấu ấn riêng mình.
Ở tập thơ “ Gió lộng” viết năm 1955 -1961 lý tưởng cộng sản được Tố Hữu thể hiện ở hai mảng đề tài và đây cũng là hai nhiệm vụ lớn lao của cách mạng . Một là xây dựng CNXH ở miền Bắc và giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà.
“Yêu biết mấy những con người đi tới
Hai cánh tay như hai cánh bay lên
Ngực dám đón những phong ba bão táp
Chân đạp bùn không sợ các loài sên”
Hướng về miền Nam ruột thịt tác giả cũng dành những vần thơ nói lên nỗi đau của những anh em bị thảm sát:
“Hãy nghe tiếng của nghìn xác chết
Chết thê thảm, chết một ngày bi thiết
Cả nghìn nguời, trong một trại giam
Của một nhà tù lớn: Miền Nam!”
Thơ ca của Tố Hữu chủ yếu khách thác cảm hứng từ đời sống chính trị của đất nước từ con đường hoạt động cách mạng của bản thân. Nhưng Tố Hữu viết về những vấn đề chính trị bằng tất cả sự nhiệt huyết của một trái tim cảm xúc. Cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu ngay từ buổi đầu là cái tôi chiến sỹ nhưng theo năm tháng càng về sau cái tôi ấy càng nhân danh cách mạng, nhân danh dân tộc. Ông đã dành cả cuộc đời mình cho cách mạng cho dân tộc và chính bằng trái tim nhiệt huyết đầy yêu thương của mình.
“Chỉ là một giữa loài người đau khổ
Vứt trong lồng con giữa một lồng to
Chuyển đời quay theo tiếng gọi tự do
Tôi chỉ một giữa muôn người chiến đấu”
Tính chính trị trữ tình trong thơ Tố Hữu tạo nên khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nổi bật lên trong thơ Tố Hữu là vấn đề vận mệnh dân tộc, cộng đồng chứ không phải vấn đề cá nhân. Nói đúng hơn số phận cá nhân hòa số phận dân tộc, cộng đồng. Thơ ông dạt dào cảm hứng lãng mạn hướng về lý tưởng cộng sản và tương lai xã hội chủ nghĩa. Thể hiện cuộc sống cảm quan ấy, thế giới hình tượng trong thơ Tố Hữu là thế giới cao cả, lý tưởng của anh sáng, gió lộng, niềm tin.
Bài thơ Việt Bắc là bài thơ thể hiện rõ nét nhất lý tưởng cộng sản, con đường cách mạng cũng như tính dân tộc, sử thi trong thơ ca ông. Những câu thơ lục bát truyền thống của dân tộc vốn mềm mại, uyển chuyển lại thể hiện chất hùng tráng mạnh mẽ. Những câu thơ rất lãng mạn, tạo nên vẻ đẹp lý tưởng của cả một dân tộc anh hùng. Ở đó thể hiện tư thế kỳ vĩ, ngạo nghễ của những người anh hùng được hòa quyện trong nét đẹp bình dị, thân thiết:
“Những đường Việt Bắc của ta
…
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”
Khí thế hào hùng của dân tộc trong cuộc kháng chiến đã được tái hiện sinh động trong những dòng thơ đậm chất sử thi. Hình ảnh có sức khái quát lớn lao, giúp người đọc hình dung được rừng cây núi đá cùng con người đứng lên kháng chiến. Núi là lũy sắt, rừng là trận địa để che bộ đội, để vây quân thù. Hình ảnh có khả năng tái hiện hiện thực cuộc kháng chiến gian khổ, anh hùng của dân tộc, làm nổi bật tinh thần quyết chiến, quyết thắng khát vọng cứu nước, cứu nhà và lòng căm thù giặc sục sôi của con người. Câu thơ ” Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay” cân xứng về ý tứ, nhịp điệu vừa lãng mạn vừa hào hùng vừa làm ngời sáng khí phách của đoàn quân ra trận, của cả một dân tộc cùng ánh hào quang rực rỡ của lý tưởng, khát vọng chiến thắng.
Thơ Tố Hữu còn có giọng điệu rất dễ nhận ra đó là giọng điệu tâm tình là tiếng nói của tình thương mến. Như nhà thơ Chế Lan Viên nói “Thơ Tố Hữu là thơ cách mạng, chứ không phải thơ tình yêu, nhưng thơ anh là của một tình nhân, anh nói các vấn đề bằng trái tim của một người say đắm. Cái sức mạnh lớn nhất của Tố Hữu là quả tim anh”. Điều này dễ nhận thấy ở bài thơ Việt Bắc đã sử dụng thể thơ lục bát cùng cách đối đáp giao duyện ngọt ngào thiết tha cùng cặp đại từ nhân xưng “minh , ta” nhịp nhàng sánh đôi.
Việc khẳng định phong cách thơ trữ tình chính trị đã đưa Tố Hữu lên vị trí trang trọng trong nền thơ ca dân tộc. “Thời đại anh hùng đòi hỏi những lời lẽ anh hùng”. Khí thế oai hùng của những ngày chiến đấu đã dội vào thơ anh, in dấu trong thơ Tố Hữu những nét không thể phai nhạt. Đúng như nhà phê bình Hoài Thanh viết:”Thái độ toàn tâm toàn ý với lý tưởng cách mạng đã mang đến sự thành công trong sự nghiệp thơ ca của anh”.
Nhận định 2: Bàn về thơ Tố Hữu, nhà phê bình Hoài Thanh viết: “Thái độ toàn tâm, toàn ý vì cách mạng là nguyên nhân chính đưa đến thành công của thơ anh”. Bình luận ý kiến trên và chứng minh bằng các tác phẩm của Tố Hữu mà anh chị đã được học.
Hoài Thanh viết về thơ Tố Hữu: “Thái độ toàn tâm, toàn ý vì cách mạng là nguyên nhân chính đưa đến thành công của thơ anh”, liệu bạn có đồng ý với tôi rằng nhận định này của nhà thơ rất đúng với cuộc đời và sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu.
Thật vậy, Thơ Tố Hữu gắn bó chặt chẽ với cuộc đấu tranh cánh mạng nên các chặng đường thơ cũng song hành với các giai đoạn đấu tranh ấy, đồng thời thể hiện sự vận động trong tư tưởng và nghệ thuật của nhà thơ.
Tập “Từ ấy” (1937 – 1946) gồm ba phần: Máu lửa, Xiềng xích, Giải phóng, tương ứng với ba chặng đường trong mười năm hoạt động cách mạng của nhà thơ. “Máu lửa” là tiếng reo náo nức của một tâm hồn được giác ngộ lý tưởng: Từ ấy… và rộn vang tiếng chim.
Nhờ đó, nhà thơ đã nhận ra được ách áp bức giai cấp, những bất công của xã hội và thân phận của con người lao khổ. ông hướng tâm hồn mình đến cảm thông với những Em bé mồ côi, Lão đầy tớ, Cô gái giang hồ, Em bé đi ở và khơi dậy ở họ lòng căm thù, ý chí chiến đấu và niềm tin ở tương lai.
“Xiềng xích” là bản quyết tâm thư của người chiến sĩ cách mạng tự dặn lòng mình quyết không khuất phục trước uy lực và sự tàn bạo của kẻ thù (Trăng trối, Con cá chột nưa…) và luôn luôn tha thiết yêu đời, khát khao tự do và hành động. Đây là phần đặc sắc của tập thơ.
“Giải phóng” – Cách mạng tháng Tám thành công, nhà thơ say sưa nồng nhiệt ca ngợi thắng lợi, ngợi ca nền độc lập, ngây ngất trong niềm “vui bất tuyệt” với cảm hứng dâng trào trước cuộc đổi đời vĩ đại của nhân dân, dân tộc. Tập ‘‘Việt Bắc” (1947- 1945)
Quân thù trở lại, cả dân tộc bước và cuộc kháng chiến anh dũng. Việt Bắc là “thủ đô kháng chiến”, nơi có Đảng, Bác Hồ lãnh đạo toàn dân đánh giặc. Việt Bắc là bản anh hùng ca ca ngợi cuộc kháng chiến anh hùng và những con người bình dị mà anh hùng của cuộc kháng chiến (như các em thiếu nhi, các anh bộ đội, các chị phụ nữ, các bà mẹ… và trên tất cả, hình ảnh tập trung, biêu biểu cho phẩm chất dân tộc là hình ảnh Bấc Hồ). Tập thơ còn ca ngợi những tình cảm điển hình của con người kháng chiến như tình yêu nước, tình yêu đồng bào, tình quân dân, tình cảm miên ngược với miền xuôi, lòng yêu thiên nhiên, kính yêu Đảng, Bác Hồ… và niềm tin tưởng ở ngày mai tươi sáng.
Vào giai đoạn cuốì với chiến công Điện Biên, hoà bình lập lại, miền Bắc được giải phóng đã chấp cánh cho hồn thơ Tố Hữu bay bổng vổi những cảm hứng sử thi mang hào khí thời đại. “Việt Bắc” là thành tựu xuất sắc nhất của văn học kháng chiến chống Pháp.
Tập “Gió lộng” (1955 – 1961), bước vào giai đoạn này cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và giải phóng niềm Nam tiến tới thông nhất nước nhà:
“Rộn ràng thay cảnh quê hương
Nửa công trường, nửa chiến trường xôn xao”
Thơ Tố Hữu bám sất nhiệm vụ chính trị đó: Tập “Gió lộng” vừa thể hiện niềm vui, niềm tự hào và tin tưởng ở công cuộc xây dựng cuộc sống mới ở miền Bắc, vừa bày tỏ tình cảm thiết tha với niềm Nam và ý chí thông nhất nước nhà, tình cảm quốc tế rộng lớn.
Trong niềm vui lớn với cuộc sông hiện tại, Tố Hữu không quên nghĩ về quá khứ để bày tỏ tình cảm biết ơn ông cha và những người đi trước mở đường. Và từ đó thấm thía ân tin? cách mạng (Ba mươi năm đời ta có Đảng, Mẹ Tơm…).
Tập “Gió lộng” tiếp tục phát triển cảm hứng sử thi và khuynh hướng khái quát với một cái tôi trữ tình đa dạng hơn và một nghệ thuật biểu hiện già dặn và nhuần nhị hơn.
Hai tập “Ra trận” (1962 – 1971), “Máu và hoa” (1972- 1977) là những chặng đường thơ Tố Hữu trong những năm chống Mĩ quyết liệt và hào hùng của dân tộc cho tới ngày toàn thắng. Thơ Tố Hữu lúc này là khúc ca ra trận, là mệnh lệnh tiến công, là lời kêu gọi, cổ vũ hào hùng cả dân tộc “khắp thành thị thông thôn” vùng lên quyết đập “tan đầu Mĩ Ngụy”. “Ra trận” cũng dành hẳn một trường ca “theo chân Bác” để tái hiện hình ảnh Bác trên những chặng đường lịch sử trong hơn nửa thế kỉ.
“Máu và Hoa” là những suy ngẫm của nhà thơ về những hi sinh to lớn của dân tộc (máu) để tạo nên những chiến công (hoa) chói lọi của lịch sử “phải bao máu thấm trong lòng đất / Mới ánh hồng lên sắc tự hào”.
Thơ Tố Hữu những năm chống Mỹ cứu nước mang đậm tính chính luận và chất sử thi, nhiều chỗ vươn tới âm hưởng anh hùng ca.
Từ năm 1978 lại đây, thơ Tố Hữu được tập hợp trong hai tập “Một tiếng đờn” (1992) và “Ta với ta” (1999).
Trải qua những thăng trầm, những trải nghiêm trước cuộc đời, nhà thơ muốn bày tỏ những suy tư về cuộc sống, về lẽ đời, hướng tới những quy luật phổ quát và tìm kiếm những giá trị bền vững. Giọng thơ vì thế cũng trầm lắng, thấm đượm chất suy tưởng.
Tóm lại ta nhận ra rằng ý kiến của Hoài Thanh phù hợp với thực tế sáng tác thơ Tố Hữu và gợi ý cho chúng ta khi tìm hiểu những bài thơ thành công của Tố Hữu trong thời kì kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Ý kiến đó cũng đúng về lí luận, “Nhà văn phải cố gắng sao cho những cái làm cho anh phấn khởi hay xúc động cũng là những cái làm cho dân tộc anh vui sướng hay đau khổ” (Bê-se).
Thơ Tố Hữu là một bằng chứng sống động cho sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chính trị và nghệ thuật. Con đường thơ của ông là con đường tìm tòi sự kết hợp hài hoà hai yếu tố, hai cội nguồn là dân tộc và cách mạng trong hình thức đẹp đẽ của thơ ca. Với ngôn ngữ, thể thơ giàu tính đại chúng, dân tộc, cách mạng, thơ Tố Hữu đã truyền được cho hàng triệu độc giả niềm say mê lý tưởng cách mạng.
Nhận định 3: “ Tố Hữu – “Ông hoàng” của thơ tình yêu lãng mạn cách mạng
Tố Hữu được tôn vinh là “nhà thơ của cách mạng”, “nhà thơ của nhân dân”, “ngọn cờ chiến đấu của thơ ca cách mạng Việt Nam”, “người có công đầu xây dựng nền thơ ca cách mạng Việt Nam”,”một cuộc đời trọn vẹn với Cách mạng – Nghệ thuật – Tình yêu”, “một viên ngọc trong nền văn hóa Việt Nam”, “nhà thơ của chủ nghĩa nhân văn cách mạng”, v.v.
Xuyên suốt các tập thơ Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa, Một tiếng đờn, Tố Hữu xứng đáng được tôn vinh như thế và nhiều hơn thế nữa.
Nay viết về Tố Hữu, qua lời các tác giả tập sách, tôi xin nêu thêm một số cảm nhận tự đáy lòng mình.
Từ ấy có thể được coi là Tuyên ngôn về cuộc sống của nhà thơ – một học sinh 16 tuổi đã tham gia cách mạng, 17 tuổi gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, 19 tuổi bị thực dân Pháp bắt đi đày…
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Mặt trời chân lý ấy không gì khác là lý tưởng cộng sản chủ nghĩa và tinh thần yêu nước thiết tha mà Đảng đã gieo vào lòng người chiến sĩ trẻ.
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
… Tôi đã là con của mọi nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha…
Và cũng từ ấy, Tố Hữu dấn thân vào con đường cách mạng, vừa làm cách mạng vừa làm thơ, làm thơ để làm cách mạng và làm cách mạng để làm giàu nguồn cảm hứng cho thơ.
“Trong thơ Tố Hữu, nét nổi bật đáng quý là sự nhất trí. Nhất trí giữa đời sống và nghệ thuật. Nhất trí giữa tình cảm, tư tưởng và hành động. Nhất trí giữa con người với thời đại, với tập thể”.
… “Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu người sống để yêu nhau”
Đó là nhận xét của nhà văn hóa bậc thầy Đặng Thai Mai.
Nhà thơ Chế Lan Viên viết: “Tố Hữu là một nhà thơ có lý tưởng”. Giữa bao ngọn cờ sai lạc dưới thời Pháp thuộc, anh là lá cờ Đảng nêu lên thành thơ cái lý tưởng, cái triết học, cái lối sống đúng đắn duy nhất lúc bấy giờ:
Đã vay dòng máu thơm thiên cổ
Phải trả ta cho mạch giống nòi
Và Tổ quốc! “Lý tưởng ấy khiến cho nhà thơ luôn luôn nghe được bên tai tiếng gọi Tổ quốc, tự mình biến thành tiếng gọi ấy để thức tỉnh lòng người”.
Nhà thơ Xuân Diệu cho rằng, khi đối diện phong trào Thơ mới đang thịnh hành, “Tố Hữu đứng trước hai con đường làm thơ: thơ lãng mạn cách mạng và thơ lãng mạn không cách mạng. Từ khi được Đảng giác ngộ: Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ/ Mặt trời chân lý chói qua tim, Tố Hữu đã bước vào con đường làm cách mạng và con đường làm thơ cách mạng”.
Xuân Diệu, một kiện tướng trong phong trào Thơ mới, từng có những bài thơ về tình yêu làm xao xuyến trái tim của biết bao chàng trai, cô gái và một thời nổi danh ông “vua” của thơ tình lãng mạn. Tố Hữu há không xứng đáng được phong danh “ông hoàng” của thơ tình yêu lãng mạn cách mạng sao?
Nhà báo lão thành Hoàng Tùng, người nhiều năm cùng Tố Hữu giữ vai trò lĩnh xướng của dàn đồng ca tư tưởng, văn hóa và báo chí viết: “Thời gian đời người chẳng được là bao, hơn nhau hai chữ anh hào mà thôi. Tố Hữu là một anh hào và là một nhà thơ. Anh để lại cho đời hơn nhiều người của chúng ta với những cống hiến cho sự nghiệp cách mạng và di sản thơ văn…”.
Nhà thơ Tố Hữu (thứ hai bên trái) thăm đập Cam Ly Thượng
Nhà lãnh đạo văn học, nghệ thuật Hà Xuân Trường khẳng định: “Với tư cách là người làm việc lâu năm với anh, tôi muốn nói một điều: Yêu dân, yêu nước, yêu Đảng, yêu Bác, yêu người thân, yêu bạn bè, tình yêu bao la không bờ bến… Thời gian qua đi, tất cả đều có thể nhạt nhòa, chỉ có tình thương yêu con người và sự tôn trọng phẩm giá con người là tồn tại mãi mãi với thời gian. Phẩm chất ấy là cốt lõi của thơ Tố Hữu, của nhà cách mạng Tố Hữu, của phong thái Tố Hữu:
Con người hai tiếng đơn sơ
Tự bao giờ đến bây giờ mai sau
… Trăm năm ngắn lắm người ơi!
Thương nhau cho nở nụ cười cùng hoa
Cho ta hạnh phúc cùng ta
Đời người không thể lại là kiếp con!
Với đất nước và dân tộc, Tố Hữu không chỉ nhìn hiện tại mà “Trông lại ngàn xưa, trông tới mai sau”. Để rồi tìm thấy sự đồng cảm về những “câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình” của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du.
Với Bác Hồ, có lẽ không ai trong chúng ta không thuộc ít nhất một bài thơ của Tố Hữu viết về Người.
Người là Cha, là Bác, là Anh
Trái tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ
… Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn lúa mỗi nhành hoa.
“Tố Hữu là nhà thơ Việt Nam viết hay nhất về Bác Hồ, tình cảm của anh đối với lãnh tụ được coi là tình cảm đại biểu cho toàn dân. Tố Hữu xứng đáng với sự ngưỡng mộ và biết ơn của công chúng văn học hơn ai hết”. Một nhà thơ thời cách mạng của chúng ta quả quyết như vậy.
Với Đảng và Thơ, ở tuổi gần 70, Tố Hữu vẫn nồng nàn tâm sự:
Thuyền còn vượt sóng không nghiêng ngả
Nghĩa lớn xuôi dòng lộng ước mơ
Mới nửa đường thôi, còn bước tiếp
Trăm năm duyên kiếp Đảng và Thơ.
Tố Hữu là một “nhà thơ lớn”. Không phải riêng giới văn học nghệ thuật mà cả trong xã hội nói chung, danh xứng ấy được thừa nhận như điều hiển nhiên. Thế mà trong bài tưởng nhớ nhà thơ Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi chỉ ghi: “Vĩnh biệt nhà thơ của cách mạng”. Anh cắt nghĩa: “Có lần một người bạn gọi anh là nhà thơ lớn của cách mạng. Anh đã mỉm cười và chỉ nhận mình là một nhà thơ của cách mạng”. Phải chăng người bạn ấy chính là Nguyễn Đình Thi?
Tố Hữu là thế đấy. Không bao giờ tự đề cao, tự khen thơ mình. “Bây giờ có người bảo thơ tôi chỉ là “thơ thời sự”, tôi đồng ý ngay vì khi làm thơ, tôi đâu có mơ nó tồn tại thiên thu. Lại có người nói thơ tôi là loại “thơ phải đạo”. Tôi bảo họ, anh nói không sai vì cổ nhân nói “văn dĩ tải đạo” (văn là để chở đạo), vậy tôi cũng chỉ làm thơ theo lời dạy của cổ nhân thôi. Xét cho cùng, riêng cho tôi thì chẳng có gì đáng nói, nhưng tôi không biết lớp trẻ bây giờ có hiểu sai lạc thời kỳ đẹp nhất của văn nghệ nước ta?” – Tố Hữu tâm sự như vậy.
Tố Hữu lớn trong tư cách nhà thơ, lớn cả trong vai trò nhà lãnh đạo chủ chốt mặt trận tư tưởng, văn hóa văn nghệ nước ta trong thời gian dài – suốt hai cuộc kháng chiến cứu nước và nhiều năm sau này. Là người hăm hở trong xây dựng nền văn hóa, văn nghệ nhân dân, cũng là người say mê trong xây dựng nền văn hóa mới, con người mới, một nền văn hóa mang đậm tính dân tộc, tính tiên tiến và tính nhân văn. Tố Hữu rất coi trọng việc khai thác và phát huy các vốn cổ dân tộc, những loại hình văn học nghệ thuật dân gian, cổ truyền của cộng đồng, của từng dân tộc và từng địa phương.
Những đóng góp của Tố Hữu vào văn học, nghệ thuật nước nhà thật đáng trân trọng, đáng tự hào.
Ấy vậy mà… khép lại đời mình ở tuổi 82, Tố Hữu chỉ để lại mấy dòng thơ ngắn ngủi:
Tạm biệt đời ta yêu quý nhất
Còn mấy dòng thơ, một nắm tro
Thơ gửi bạn đường. Tro bón đất
Sống là cho. Chết cũng là cho.
Đây là tấm lòng? Là triết lý sống? Hay cả hai?
Tố Hữu tạm biệt đời, nhưng vẫn còn có mặt dài lâu với đời. Nhà thơ để lại cho đời nhiều hơn rất nhiều những gì nhà thơ nói.
Nhận định 4: Nguyễn Đình Thi đã nhận định về thơ Tố Hữu:
“Trọn đời, Tố Hữu là một chiến sĩ cách mạng làm thơ và là nhà thơ của cách mạng (…), và trong lửa của thơ anh, có biết bao thương yêu dịu dàng đối với đất nước, quê hương và những con người của đất nước, quê hương. Từ cuộc sống hiện đại, thơ anh ngày càng bắt nguồn trở lại vào hồn thơ cổ điển của dân tộc”.
(Báo văn nghệ, số 50 (2239), ra ngày 14-12-2002)
Anh chị suy nghĩ như thế nào về nhận định trên đây?
Hãy liên hệ với một số bài thơ của Tố Hữu để làm sáng tỏ vấn đề.
Xin tạm biệt cuộc đời yêu quý nhất
Còn mấy vần thơ, một nắm tro
Thơ gửi bạn đời, tro bán đất
Sống là cho, chết cũng là cho.
Bài thơ nhỏ ấy đã khép lại một đời thơ của Tố Hữu. Hơn nửa thế kỉ cầm bút, tiếng thơ Tố Hữu đã hóa thân vào hồn thiêng sông núi. Tôi đã nghe những em bé líu lo đọc thơ anh trên đường đi học về, tôi đã nghe những anh công nhân nhắc đến thơ anh với tất cả “tình thương mến”, tôi cũng đã nghe những con người từng đi qua bão táp chiến tranh nhắc đến thơ anh trong niềm xúc động sâu xa,…Tiếng thơ Tố Hữu là tiếng thơ của hôm qua, hôm nay và của cả ngày mai. Ngày 9-12-2002, con người mà cả cuộc đời sống là cho và chết cũng là cho đã ra đi trong niềm tiếc thương của đất nước. Chỉ vài ngày sau khi Tố Hữu mất, trên báo Văn nghệ, số 50 (2239), Nguyễn Đình Thi đã nhận định về thơ anh:
“Trọn đời, Tố Hữu là một chiến cách mạng làm thơ và là nhà thơ của cách mạng (…) Và trong lửa của thơ anh, có biết bao thương yêu dịu dàng đối với đất nước quê hương và những con người của đất quê hương. Từ cuộc sống hiện đại, thơ anh ngày càng bắt nguồn trở lại vào hồn thơ cổ điển của dân tộc”.
Nhận định của Nguyễn Đình Thi đã bao quát được những nội dung và đặc điểm cơ bản của hồn thơ Tố Hữu. Đó cũng là nến nhan thầm kính viếng người con yêu quý giống nòi – Tố Hữu!
Mỗi khi phân tích bất kì bài thơ nào của Tố Hữu, tôi luôn muốn gọi Tố Hữu bằng anh; tiếng anh nghe thân mật và yêu thương lắm. Và dường như tôi luôn cảm thấy có mình là em trong câu thơ mà Tố Hữu tự xưng là anh: là anh của vạn đầu em nhỏ.
Thơ Tố Hữu trẻ lắm! Mà vì thơ Tố Hữu trẻ nên Tố Hữu cũng luôn trẻ trong lòng người đọc. Mọi người thích thơ anh vì hai lẽ chính: thứ nhất là niềm say mê lý tưởng và thứ hai là tính dân tộc đậm đà thể hiện trong cả nội dung lẫn hình thức. Niềm say mê lý tưởng ấy xuất phát từ “một chiến sĩ cách mạng làm thơ”, một “nhà thơ của cách mạng”. Nguyễn Đình Thi đã nhắc đến đặc điểm nổi bật của cuộc đời Tố Hữu. Anh là chiến sĩ, anh cũng là nhà thơ và anh là “nhà thơ cách mạng”. Hai yếu tố “nhà thơ” –“chiến sĩ” hoà quyện trong một con người làm nên đoá hoa bất tử ngát hương dâng lên tượng đài dân tộc. Cách mạng đã cho anh một nguồn cảm hứng vô tận để tiếng thơ anh bay lên với tất cả niềm phấn khởi say mê. Hãy dừng lại một chút để nhớ lại cuộc đời chiến sĩ, cuộc đời thơ của anh. Bốn tiếng “chiến sĩ cách mạng” nhắc mọi người về ngày anh say mê đón nhận lí tưởng của Đảng:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim…
Và anh cũng bắt đầu làm thơ từ ấy, những vần thơ gắn với cuộc đời “chiến sĩ cách mạng” của anh, gắn với cuộc cách mạng vĩ đại của dân tộc. Ta còn nghe tiếng uất ức, hờn căm của người thanh niên, người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi lần đầu bị đẩy vào chốn ngục tù:
Cô đơn thay là cảnh thân tù!
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực
Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!
Và ta cũng đã cùng anh cất lên tiếng hát đi đày từ thành phố biến Quy Nhơn lên nhà tù Đắc Lay xa xôi, hẻo lánh, cùng anh đứng trên núi cao, phóng tầm mắt dự báo một cuộc quăng máu xương, phá bẻ xiềng gông:
Có ai hiểu nổi hờn ghê gớm
Trên mắt người trông với núi sương
Núi hỡi! Từ đây băng xuống đó
Chừng bao nhiêu dặm, mấy đêm đường?
Người chiến sĩ ấy đã làm thơ-những vần thơ hừng hực lửa cách mạng và sôi sục lòng nhiệt huyết-những vẫn thơ chắt ra từ nước mắt, máu và tình yêu tổ quốc, yêu cách mạng thiết tha. Nói anh là “nhà thơ của cách mạng” cũng có nghĩa anh là nhà thơ của đất nước, nhà thơ của nhân dân. Cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ của anh bắt đầu cùng một lúc. Cách mạng đã dẫn anh đến chân trời đích thực của nghệ thuật. Từ ấy (1937-1946), Việt Bắc (1946-1954), Gió lộng (195-1961), Ra trận(1962-1971) cho đến Máu và hoa (1972-1977), tiếng thơ anh đã làm sống lại cho cả một thời kì lịch sử đau thương vô hạn mà cũng đẹp đẽ vô cùng. Cho tôi gọi đời thơ anh là cuốn “Bách khoa toàn thư” của một giai đoạn anh hùng, cho tôi gọi anh bằng cụm từ “người thư kí trung thành của thời đại”. Những người hôm nay sống lại không khí của những ngày đánh Pháp hãy đọc thơ anh, muốn hiểu được những mất mát hi sinh của những ngày chống Mĩ hãy đọc thơ anh và còn, còn nữa. thơ anh không giám nói là đã phản ánh đầy đủ nhưng đã thể hiện được những nét nổi bật của Tổ quốc, của cách mạng, của nhân dân trong cơn bão ngoại xâm. Anh là “nhà thơ của cách mạng”, thơ anh đã thắp lên ngọn lửa soi rọi một thời kì lịch sử. Anh cũng đã từng viết: Gà gáy sáng thơ ơi mang cánh lửa. Ngọn lửa ấy trong thơ anh đã được Nguyễn Đình Thi nhận định: “và trong lửa của thơ anh, có biết bao thương yêu dịu dàng đối với đất nước quê hương và những con người của đất nước, quê hương”.
Đây cũng chính là nội dung cơ bản của tiếng thơ Tố Hữu. Nhắc đến lửa trong thơ Tố Hữu, làm sao quên được lời tâm sự chân thành của anh:
Tôi muốn viết những dòng thơ tươi xanh
Vẫn nóng viết những dòng thơ lửa cháy.
Lửa trong thơ anh là nhiệt tình cách mạng của anh đó, là lòng căm thù ngút trời trước tội ác kẻ thù, là nỗi đau không nói nên lời khi quê hương nát tan, điêu tàn dưới gót giặc,…Ngọn lửa anh thắp lên trong thơ mình cũng là ngọn lửa yêu thương đất nước, yêu thương con người mà đến cuối đời mình nó vẫn còn hừng hực sôi nổi trong tim anh. Hai nội dung lớn trong thơ anh là đất nước Việt Nam và con người Việt Nam. Nhưng điều Nguyễn Đình Thi nhấn mạnh là tình “thương yêu dịu dàng” của anh đối với đất nước và con người Việt Nam. Làm sao đếm hết những bài thơ anh viết về đất nước, làm sao hiểu hết những vần thơ hào hứng, sôi nổi mà thiêng liêng khi anh nghĩ về Tổ quốc! Có thể nói viết về đất nước, quê hương. Tố Hữu là một trong những nhà thơ thành công nhất. Lã dĩ nhiên, nhà thơ nào cũng viết về quê hương, đất nước với tất cả tấm lòng nhưng viết như thế nào để bao thế hệ người đọc đều sẻ chia, cảm thông và đồng cảm để rồi nhận ra “biết bao yêu thương, dịu dàng” mà bản thân nhà thơ đã gửi gắm! Biết bao người đã khóc khi đọc hai câu thơ:
Mẹ ơi, dưới đất còn chua xót
Những tiếng giày đinh đạp núi đồi!
Và cũng ngần ấy trái tim thắt lại khi anh viết:
Giặc về giặc đốt xóm làng,
Xác xơ cây cỏ tan hoang cửa nhà.
Một vùng trắng bãi tha ma,
Lặng im-không một tiếng gà gáy trưa.
Biết bao yêu thương, khi quê hương bị giặc tàn phá. Đọng lại sau mỗi con chữ là những dòng nước mắt tuôn trào, là những tiếng nấc nghẹn. Nỗi đau từ tim anh đã truyền sang tim người đọc, buộc họ phải khóc, phải nhói lòng. Và đâu đây, tôi như thấy ánh mắt đau đớn của anh khi cửa nhà tan hoang, cây cỏ xác xơ tiêu điều, mẹ già lầm lũi nén chịu nỗi đau chiến tranh,…Biết bao uất hận nghẹn ngào, biết bao cảm xúc mà người hôm nay khó mà hiểu hết-tình thương yêu đã hoá thành nỗi hận. Quê hương đất nước trong thơ anh đầy nước mắt. Nhưng anh không chỉ nhìn thấy nổi đau cảu đất nước mà còn thấy cả ngày mai:
Trời hôm nay dầu xám ngắt màu đông
Ai cản được màu xuân xanh tươi sáng
Ai cản được những đoàn chim quyết thắng
Sắp về đây tắm nắng xuân hồng ?
Quê hương đất nước hiện lên trong thơ anh với vẽ đẹp lộng lẫy.Vẻ đẹp ấy không xuất phát từ đâu xa mà từ trái tim tràn đầy yêu thương ! ôi tổ quốc ta đẹp quá!
Dường như đó là tiếng reo của những vần thơ anh viết về đất nước.Đất nước hiện lên một người mẹ tần tảo hy sinh mà anh dũng tuyệt vời:
Việt Nam, ôi !Tổ quốc thương yêu !
Trong khổ đau, Người đẹp hơn nhiều
Như bà mẹ sớm chiều gánh nặng
Nhẫn nại nuôi con, suốt đời im lặng …
Anh đã cho tôi niềm tự hào sâu xa, niềm xúc động dâng trào về Tổ quốc, bằng chính niềm yêu thương dịu dang của anh. Tôi đã nghe thấy tiếng trái tim anh, đó cũng chính là nhịp tim đất nước, tình yêu đất nước thiêng liêng đã trở thành tiếng đông vọng từ thơ anh dội vào lòng muôn thế hệ. Không yêu quê hương tha thiết, không yêu đất nước hơn cả chính bản thân mình, làm sao có thể viết những dòng thơ lay động tâm hồn mọi người như thế ?cái quý nhất ở tiếng thơ Tố Hữu có lẽ là sự dịu dàng của một tình yêu thương rất Huế.Anh nói về tổ quốc như nói về một người mẹ.Và cả cách anh nói cũng là cách mà một đứa bé kiêu hãnh nói về người mẹ của mình.Tiếng thơ anh dịu dàng như hương thơm của những bông hoa trên thảo nguyên.Viết về đất nước, anh viết bằng tất cả sự súc động chân thực.Đố nhất đinh không phải là những vần thơ lên gân,mà ngọt ngào,mềm mại như lời ru của mẹ, thiết tha như một câu Kiều ông lẩy giữa đêm khuya.
Cho tôi cùng anh xúc động, hồ hởi, hào hứng, say mê cất cao lời ca:
Đẹp vô cùng, Tổ quốc ta ơi!
Rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngào ngạt
Nắng chói sông Lô, hò hô tiếng hát
Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca…
và cùng vẫy tay thiết tha chào xuân mới:
Xuân ơi xuân em mới đến dăm năm
Mà cuộc sống đã tưng bừng ngày hội.
Cuộc sống mới-cuộc sống của bình yên, hạnh phúc, của những ước mơ xanh, những ánh mây hồng đang về:
Nắng tươi xóm ngói, tường vôi mới
Phấp phới buồn giong, nắng biển khởi…
Đất nước quê hương trong thơ anh cũng là niềm thương nỗi nhớ đêm ngày vết thương chia đôi đất nước đang rỉ máu từng ngày :
Ôi niềm nam,vì sao mỗi lúc
Mây chiều xa bay giục cánh chim
Đêm khuya một tiến bầu,tiếng trúc
Một câu hò…cũng đọng trong tim?
Anh đã kêu lên thảng thốt: Miền Nam ơi chảy máu, anh đã nói quê hương xứ Huế đến xé lòng:
Huế ơi! Quê mẹ của ta ơi
Nhớ tự ngày xưa, tuổi chín mười
Mây núi hiu hiu, chiều lặng lặng
Mưa nguồn gió biển, nắng xa khơi…
Chúng ta tìm thấy vô vàn tình yêu thương dịu dàng khi anh viết về quê hương đất nước-đó là nỗi lòng của tôi, của bạn, của tất cả những người chung một dòng máu Việt Nam. Đất nước quê hương trong thơ anh là đất nước lòng nóng bỏng căm thù vẫn mát tươi tình bạn, là đất nước quê hương thì làm sao không nhắc đến con người Việt Nam? Nhìn lại đời thơ Tố Hữu, tôi đã được chiêm ngưỡng triệu triệu con người mà anh đã viết bằng tất cả nỗi “thương yêu dịu dàng”. Có phải mỗi khi cầm bút viết về con người Việt Nam trong đấu tranh, trong xây dựng, anh hùng đã đứng trên tầm cao lịch sử mà rung động trong tim một nỗi yêu thương? Có khi sau mỗi vần thơ tôi thấy một vần nước mắt, có khi một nụ cười, nhưng cũng có lúc nụ cười trên môi mà nước mắt đong đầy. Đếm làm sao hết những con người Việt Nam trong thơ anh, những chứng nhân lịch sử mà cũng là những người làm nên lịch sử. từ người mẹ hậu phương: Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non đến người mẹ làm cách mạng: Chợ xa, Mẹ gánh mớ rau xanh, Thêm bó truyền đơn gọi đấu tranh; từ chị con gái phá đường: Rét thì rét, nước làng em lo đến cô du kích: Rắn quấn quanh chân vẫn diệt thù; từ chú bé anh hùng: Sợ chi hiểm nghèo đến em thơ đội mũ rơm đi học đường làng và thậm chí những cụ bạc đầu quân vót chông chống giặc,…
Tất cả những con người ấy đã làm nên bức tranh hoành tráng của một thời kì mãi mãi trường tồn. Anh đã dựng lên hàng hàng lớp lớp những thế hệ con người Việt Nam anh hùng trong chiến đấu, sáng tạo trong lao động và thiết tha ân tình với tất cả tấm lòng “yêu thương dịu dàng của mình”. Tôi cứ muốn nói mãi về lòng yêu thương dịu dàng ấy. Tình yêu thương! Phải! Chính những tiếng đẹp đẽ ấy đã khiến thơ anh nằm mãi trong tim triệu con người. Một người đã nói : “Muốn làm cho người đọc khóc, trước tiên nhà thơ phải khóc. Muốn làm cho người đọc cười, trước tiên nhà thơ phải cười”.
Và có phải anh đã dồn rất nhiều yêu thương vào hình ảnh bộ đội và lãnh tụ? Anh đã dõi mắt:
Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá nguỵ tranh reo với gió đèo…
Và thân thương biết bao khi Tổ quốc đọc được lòng anh bộ đội:
Chắc có lúc lòng anh
Nhớ nhà anh nhớ lắm.
Hình ảnh lãnh tụ trong thơ anh cũng là sự kết tinh bao tinh hoa dân tộc, được anh dựng lên với tất cả sự yêu thương, kính trọng, tự hào:
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường!
Nhớ người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo.
Người đi rừng núi trông theo bóng Người…
Tôi muốn nói nhiều, nhiều nữa về quê hương đất nước, về “những con người của đất nước quê hương” trong thơ Tố Hữu để thấy được, cảm được “trong lửa thơ anh, có biết bao yêu thương dịu dàng” đối với đất nước quê hương và con người Việt Nam.
Đến đây chúng ta cần đặt ra một câu hỏi lí tưởng như rất đơn giản: Vì sao thơ anh lại luôn chứa đựng “biết bao thương yêu dịu dàng” đối với Tổ quốc và con người Việt Nam? Đó là bởi lí tưởng sống của anh:
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ…
Là bởi trái tim ấy chưa bao giờ nguôi thương yêu đất nước, là bởi con người ấy đã biết hi sinh tất cả vì đất nước và nhân dân, vì cách mạng. Và có lẽ một khi đã nhắc đến “tình thương yêu dịu dàng” đối với đất nước, nhân dân trong thơ anh, không thể không nhắc đến sự gắn bó máu thịt của anh đối với cuộc sống, với nhân dân: Thơ ta ơi hãy cất lên tiếng hát để Ca ngợi trăm lần Tổ quốc chúng ta.
Và thêm nữa, anh cũng là chiến sĩ, anh đã hiểu những ngày đất nước đang sống là những ngày làm nên lịch sử, mỗi cuộc đời con người là một bản anh hùng ca. Tôi rất thích hai tiếng “dịu dàng” mà Nguyễn Đình Thi đã nhận định. “Thương yêu dịu dàng”-cụm từ ấy sao đẹp quá! Hai tiếng dịu dàng nhắc ta nhớ về giọng thơ Tố Hữu-giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, “giọng thơ của tình thương mến”, mọt giọng thơ “rất Huế” mà cũng rất Việt Nam! Phải rồi đó là vì sao thơ Tố Hữu dễ đọc, dễ cảm, dễ hiểu, dễ nhớ, là lí do vì sao tình yêu quê hương đất nước và con người của anh đã hồn nhiên len vào triệu triệu trái tim Việt Nam.
Một đặc điểm rất đáng quý, đáng trân trọng nữa của thơ Tố Hữu là: “Từ cuộc sống hiện đại, thơ anh ngày càng bắt nguồn trở lại vào hồn thơ cổ điển của dân tộc”.
Không say mê sáng tạo nên những hình ảnh thơ mới lạ, hiện đại hay tạo ra những cuộc phá cách đột phá trong sáng tạo nghệ thuật, thơ Tố Hữu ngay từ buổi ban đầu khi lí tưởng Đảng soi đường đã cắm rễ vào “hồn thơ cổ điển của dân tộc”. Nguyễn Đình Thi bằng ngôn ngữ của riêng mình – đã nhắc đến một đặc điểm cơ bản của thơ Tố Hữu: tính dân tộc đậm đà. Chính vì đặc tính ấy mà anh đã “ngày càng bắt nguồn trở lại vào hồn thơ cổ điển của dân tộc”. Đọc thơ anh, ta sẽ thấy phản phất đâu đây “hồn thơ” của một thời quá khứ. Nét lạ này đã góp phần làm nên một giọng thơ Tố Hữu, một phong cách Tố Hữu không lẫn vào đâu. Và phải chăng anh có ước vọng làm người bắt nhịp câu thơ từ hiện tại về quá khứ? Soi rọi nhận định của Nguyễn Đình Thi về đời thơ Tố Hữu, chúng ta nhận thấy anh đã “bắt nguồn trở lại vào hồn thơ cổ điển của dân tộc” bằng cách sử dụng nhuần nhuỵ những thể thơ dân tộc như thơ lục bát, song thất lục bát hay thể thơ năm chữ, bảy chữ, bằng những lối kết cấu gần gũi với ca dao, dân ca, bằng cách sử dụng những môtíp nghệ thuật quen thuộc của “hồn thơ cổ điển dân tộc” hay những so sánh ví von đã gắn với đời sống dân tộc từ ngàn đời… “Cuộc sống hiện đại” là cái hôm nay, cái mới, cái hiện tại, còn “hồn thơ cổ điển của dân tộc” là cái đã đi qua, là cái thuộc về quá khứ. Nhưng chính “hồn thơ cổ điển của dân tộc” làm nên diện mạo của một giai đoạn văn học quá khứ ấy mới làm nên bệ phóng cho một nền văn học hiện đại. Hồn thơ Tố Hữu đã ngày càng tìm về “hồn thơ cổ điển của dân tộc” và cùng với sức sáng tạo dồi dào, cùng với một tâm hồn nhạy cảm với thời đại, anh sáng tạo nên những bài thơ phản phất hồn dân tộc mà không thiếu sức sống hiện đại. Nhưng tựu lại, xu hướng của thơ anh-như Nguyễn Đình Thi nhận định-là: “Từ cuộc sống hiện đại, thơ anh ngày càng bắt nguồn trở lại vào hồn thơ cổ điển của dân tộc”. Hãy đến với Kính gửi cụ Nguyễn Du-bài thơ anh viết vào năm 1965 khi có dịp công tác ra miền Trung-chúng ta sẽ hiểu hơn vấn đề này.
Điều đầu tiên mà tôi muốn nói ngay trong những năm chống Mĩ ác liệt, Tố Hữu vẫn dành những vẫn thơ thầm kính nhất, tâm huyết nhất gửi đến một con người đã làm nên vinh quang cho nền văn học quá khứ. Và cũng chỉ cần nhìn vào thể thơ, chúng ta cũng bắt gặp hồn thơ cổ điển của dân tộc, thể thơ lục bát với những cách gieo vần rất chuẩn. Tố Hữu rất “có duyên” với thể thơ lục bát hay nói đúng hơn là anh say mê thể thơ lục bát-thể thơ của dân tộc, thể thơ mà Nguyễn Du dùng để viết nên kiệt tác Truyện Kiều, cụ Đồ Chiểu viết Lục Vân Tiên trứ danh,…Đã có lần Tố Hữu ví thể thơ lục bát như hai cánh tay nhịp nhàng múa, cái thể thơ dân tộc ấy đã trở thành thể thơ trút tâm trạng của bao thế hệ.
Nhưng không dừng lại ở đó, Kính gửi cụ Nguyễn Du đã dựng lại cả một quá khứ của Thuý Kiều, của cụ Nguyễn, của đất nước. Hơi thở Truyện Kiều đậm đà trong từng con chữ. Có lúc Tố Hữu lấy nguyên một câu Kiều:
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.
Cách tập Kiều rất khéo léo ấy đã làm nên một hơi thở đặc biệt cho tác phẩm:
Đau đớn thay thân phận dàn bà
Hỡi ôi, thân ấy biết là mấy thân!
Ngày xưa cụ Nguyễn viết trong nước mắt:
Đau đớn thay thân phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Thì hôm nay Tố Hữu nhắc lại tiếng kêu chua xót, đắng cay bao nỗi thế thái nhân tình ấy cùng với mối đồng cảm sâu sắc với người xưa.
Những tình tiết của một kiệt tác xưa đã được thâu tóm sắc sảo trong những câu thơ hàm súc:
Nỗi niềm xưa nghĩ mà thương
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng…
hay:
Ngổn ngang bên nghĩa bên tình
Trời đêm đâu biết gửi mình nơi nao?
Ngẩn ngơ trông ngọn cờ đào
Đành như thân gái sóng xao Tiền Đường.
Hơi thở Truyện Kiều mỗi lúc một nồng nàn. Tố Hữu như một người kể chuyện khéo léo, chuyện của Kiều và cả chuyện của Nguyễn Du. Phảng phất mà day dứt, suốt chiều dài bài thơ là nỗi đau khôn người về số phận những con người trong quá khứ. “Hồn thơ cổ điển của dân tộc” toả ra nồng nàn từ sự đồng cảm, yêu thương cuả Tố Hữu, từ nhịp điệu thơ trầm trầm, thấm thía, thiết tha, và đây nữa từ những biến tấu rất dân tộc:
Nhân tình nhắm mắt chưa xong
Biết ai hậu thế khóc cùng Tố Như?
Trong quá khứ, cụ Nguyễn Du đã từng trăn trở:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ nhân khấp Tố Như?
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng?)
Hai câu thơ của Tố Hữu đâu chỉ gợi lại không khí xưa của ngày Nguyễn Du thương khóc cho Tiểu Thanh đã chết cách đó ba trăm năm, mà còn là cả một tấm lòng của người hôm nay gửi về quá khứ. Lời nhắc lại câu thơ xưa bằng ngôn ngữ riêng và cả tấm lòng ấy của Tố Hữu đã thật sự nhắc mọi người về “hồn thơ cổ điển cuả dân tộc”.
Ta như thấy sự khát khao được trở lại đắm mình trong những tinh hoa của một nền văn học cổ của Tố Hữu. Nhưng bên cạnh đó cũng phải ghi nhận những sáng tạo độc đáo vừa kết hợp giữa cổ điển và hiện đại. Anh không chỉ khóc Tố Như mà còn “khóc cùng” Tố Như có nghĩa là đã đồng cảm sâu xa với Tố Như về tình yêu thương và nỗi đau cuả con người. “Khóc cùng Tố Như” -một sáng tạo độc đáo về nghệ thuật mà cũng là trai ngọc của cả một tấm lòng. Tôi muốn nhắc lại yếu tố cổ điển và hiện đại luôn hài hoà của “hồn thơ cổ điển của dân tộc” của anh đã giúp anh sáng tạo nên những bài thơ dễ dàng đi vào lòng người.
Tôi nhớ một câu hát rất hay “người đã ra đi không thể trở lại, vết thương ngày nào không thể liền da” nhưng trong tâm hồn tôi và tôi biết trong tâm hồn triệu triệu con người Việt Nam, Tố Hữu vẫn “sống”. Những nhà nghệ sĩ một khi đã làm nên những giá trị bất tử cho đời sẽ sống mãi trong lòng nhân dân. Đó là một đặc quyền thiêng liêng mà chỉ những người nghệ sĩ chân chính mới có được. Tiếng thơ Tố Hữu sẽ theo tôi, theo bạn trên những bước đường dựng xây đất nước, dựng xây tương lai và mãi mãi anh trẻ trong tôi! Cảm ơn Nguyễn Đình Thi đã thắp nén nhang tưởng niệm đến người con yêu quý của giống nòi-một nhận định đã bao quát được một cách sâu sắc những đặc điểm, những nội dung của thơ anh.
————————
Bài đạt giải nhất
Đào Trung Uyên
Trường THPT Nguyễn Huệ-Phú Yên
—/—
Như vậy Top lời giải đã trình bày xong các bài văn mẫu Nhận định về Tố Hữu. Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện về tác giả và tác phẩm. Chúc các em học tốt môn Văn!