Ngày quốc tế hạnh phúc – Ngày của chia sẻ và yêu thương
Lịch sử và ý nghĩa Ngày Quốc tế Hạnh phúc
Ngày Quốc tế hạnh phúc được Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki Moon chính thức công bố tại một hội nghị của Liên Hợp Quốc về vấn đề này từ tháng 6/2012. Đến nay, đã có 193 quốc gia thành viên, trong đó có Việt Nam cùng cam kết ủng hộ, hành động, tích cực và nỗ lực nhiều hơn để xây dựng một thế giới đại đồng, nâng cao chất lượng cuộc sống, xây dựng xã hội công bằng, phát triển bền vững, đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Liên Hợp Quốc quyết định kỷ niệm ngày này theo đề xuất của Vương quốc Bhutan, một quốc gia nhỏ bé ở khu vực Nam Á, nằm sâu trong lục địa phía Đông dãy Himalaya. Bắt đầu từ những năm 1970, nhà vua của vương quốc này đã đưa ra một cách thức mới đánh giá sự thịnh vượng của xã hội, đó là thông qua chỉ số hạnh phúc quốc gia, bên cạnh các chỉ số về kinh tế thường được dùng để đánh giá về sự giàu có vật chất. Chỉ số này được tính toán dựa trên các yếu tố về sức khỏe, tinh thần, giáo dục, môi trường, chất lượng quản lý và mức sống của người dân.
Ảnh: Sưu tầm
Trong cuộc họp phát động Ngày Hạnh phúc Thế giới, Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki Moon phát biểu: “Chúng ta cần một mô hình kinh tế mới nhận diện được tầm quan trọng của ba yếu tố tối cần thiết cho sự phát triển bền vững. Ba yếu tố đó gồm: Xã hội – Kinh tế – Môi trường. Nếu làm được cả 3 điều này, chúng ta sẽ có một thế giới hạnh phúc”.
Bhutan – quốc gia có chỉ số hạnh phúc cao đã ghi nhận uy thế của hạnh phúc quốc gia hơn là thu nhập quốc gia từ những năm đầu tiên của thập kỷ 70 thế kỷ 20 và nổi tiếng với việc thực thi mục tiêu tổng hạnh phúc quốc gia thay vì tổng sản phẩm quốc nội.
Đại diện quốc gia Bhutan cho rằng, nhu cầu về Ngày Hạnh phúc này là đối với tất cả quốc gia và con người trên toàn thế giới để có những bước vượt lên trên sự khác biệt giữa các nước và con người trên toàn thế giới, và liên kết, đoàn kết toàn nhân loại. Việc Liên Hiệp Quốc chọn ngày 20/3 là Ngày Quốc tế Hạnh phúc, còn vì đây là ngày đặc biệt trong năm, khi mặt trời nằm ngang đường xích đạo, nên trong ngày này có độ dài ngày và đêm bằng nhau – là biểu tượng cho sự cân bằng, hài hòa của vũ trụ. Cũng là biểu tượng của sự cân bằng giữa âm và dương, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa ước mơ và hiện thực… Bởi vậy, ngày 20/3 – Ngày Quốc tế Hạnh phúc cũng truyền tải thông điệp rằng: Cân bằng, hài hòa là một trong những chìa khóa để mang đến hạnh phúc.
“Đối với mỗi người khác nhau, hạnh phúc có thể mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta đều công nhận rằng, hạnh phúc nghĩa là làm việc để chấm dứt xung đột, nghèo đói và các điều kiện không may mắn khác và rất nhiều đồng loại của chúng ta hiện đang phải sống trong các điều kiện đó. Hạnh phúc không phải là điều phù phiếm, cũng không phải là điều gì xa xỉ. Hạnh phúc là khát khao sâu xa của mọi thành viên trong gia đình nhân loại. Hạnh phúc không nên từ chối một ai và phải là của tất cả mọi người. Khát vọng này ẩn chứa trong cam kết của Hiến chương Liên Hợp Quốc để thúc đẩy hòa bình, công bằng, nhân quyền, tiến bộ xã hội và mức sống được cải thiện”
Việt Nam với việc hưởng ứng Ngày Quốc tế Hạnh phúc
Việt Nam là quốc gia có hàng ngàn năm lịch sử, do đó không hề xa lạ với mục tiêu hạnh phúc. Kể từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời đến nay, “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” đã trở thành tôn chỉ quốc gia. “Độc lập là tiền đề của tự do, hạnh phúc của nhân dân. Tự do, hạnh phúc của nhân dân là thước đo giá trị, là mục tiêu của độc lập dân tộc. Hạnh phúc của nhân dân chỉ trọn vẹn khi là công dân của một nước độc lập và có đời sống vật chất ngày càng đầy đủ, có đời sống tinh thần lành mạnh. Nhân dân phải là người chủ thực thụ của đất nước và của quá trình phát triển. Mọi người đều có điều kiện để phát triển toàn diện, hướng tới chân, thiện, mỹ. Đó cũng luôn là mục tiêu, là động lực để chúng ta tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, quyết tâm xây dựng và bảo vệ một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”.
Việc tổ chức Ngày Quốc tế Hạnh phúc của Việt Nam là để cùng cả thế giới biểu thị mong muốn, niềm tin và quyết tâm phấn đấu vì một thế giới hòa bình, không có chiến tranh, không còn đói nghèo; một thế giới phát triển thịnh vượng và bền vững; một thế giới mà tất cả mọi người dù khác màu da, dân tộc, tôn giáo đều được hưởng trọn vẹn hạnh phúc. Để Ngày Quốc tế Hạnh phúc có ý nghĩa thiết thực và cao đẹp, chúng ta hãy cùng nhau chung sức, chung lòng, trách nhiệm, sáng tạo, quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo, trong đó đặc biệt quan tâm tới các khu vực đồng bào dân tộc ít người còn nhiều khó khăn, tới các đối tượng chính sách dễ bị tổn thương. Hãy cùng nhau kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp, hiếu nghĩa của dân tộc Việt Nam. Hãy yêu thương và sẻ chia để tìm thấy cho mình và giúp những người quanh ta, trước hết là gia đình, là những người thân có nhiều giây phút hạnh phúc đích thực!
Để tiếp tục thực hiện mục tiêu phát triển an sinh xã hội, xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc và hưởng ứng Ngày Quốc tế Hạnh phúc 20/3 do Liên Hiệp Quốc phát động, ngày 26/12/2013, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam đã ký Quyết định số 2589/QĐ-TTg, phê duyệt Đề án “Tổ chức các hoạt động nhân Ngày Quốc tế Hạnh phúc 20/3 hàng năm”. Đề án nhằm nâng cao nhận thức của các cấp, ngành, tổ chức, cá nhân, gia đình, toàn xã hội về Ngày Quốc tế Hạnh phúc, từ đó có hành động cụ thể, thiết thực xây dựng gia đình hạnh phúc, cộng đồng hạnh phúc của người Việt Nam; tăng cường sự tham gia, phối hợp giữa các cấp, ngành, các tầng lớp nhân dân và sự hợp tác, giúp đỡ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đối với các hoạt động nhân Ngày Quốc tế Hạnh phúc.
Trong ngày này, các cấp, các ngành, cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, gia đình và cộng đồng tự giác và tích cực tuyên truyền về lịch sử, ý nghĩa Ngày Quốc tế Hạnh phúc; chủ đề và thông điệp của Liên Hợp Quốc; chủ đề và thông điệp riêng và các hoạt động của Việt Nam nhân Ngày Quốc tế Hạnh phúc 20 tháng 3 hàng năm.
Những nội dung kể trên có thể được tuyên truyền thông qua nhiều hình thức khác nhau như: (I) Tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng: Thông qua các tin, bài, phóng sự, chuyên trang, chuyên mục, chuyên đề trên báo hình, báo in, báo nói, báo điện tử; (ii) Treo băng rôn, khẩu hiệu, pano, áp phích; tuyên truyền trên bảng tin cộng đồng chủ đề và các khẩu hiệu của Việt Nam nhân Ngày Quốc tế Hạnh phúc 20/3 tại trụ sở cơ quan, trường học, các trục đường chính, nơi công cộng, nơi đông dân cư; (iii) Tổ chức lễ hưởng ứng Ngày Quốc tế Hạnh phúc 20/3/2014 thông qua hình thức tổ chức hội thảo, hội ghị, tập huấn, tọa đàm, diễn đàn, cuộc thi, hội thi, các hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể dục, thể thao, các hình thức phù hợp khác về hạnh phúc nói chung, hạnh phúc của người Việt Nam nói riêng bao gồm hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc gia đình, hạnh phúc dòng họ, hạnh phúc cộng đồng, hạnh phúc nghệ nghiệp, hạnh phúc học đường, hạnh phúc trong hoạt động xã hội và các vấn đề liên quan.
Năm 2015 là năm thứ hai Việt Nam chính thức tổ chức các hoạt động nhân Ngày Quốc tế Hạnh phúc với chủ đề tiếp nối năm 2014 là “Yêu thương và chia sẻ”, đem thông điệp tới mọi người dân Việt Nam: Hãy yêu thương và chia sẻ cùng nhau trong gia đình, trong dòng tộc, trong mỗi cộng đồng dù lớn hay nhỏ; giữa những người bạn, người đồng chí; trong mỗi đơn vị, cơ quan, trường học… bằng những hành động thiết thực nhất góp phần đem lại hạnh phúc cho chính bản thân, gia đình và cộng đồng, góp phần phát triển an sinh xã hội, thực hiện mục tiêu xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc cùng với khẩu hiệu chính là “Hưởng ứng ngày Quốc tế Hạnh phúc 20/3 – Hãy hành động vì mục tiêu gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc và tạo ra một môi trường sống, làm việc hạnh phúc hơn! Lòng nhân ái mang lại hạnh phúc!”. Theo đó, tại nhiều bộ, ngành, địa phương trong cả nước cũng có những chương trình hành động cụ thể, thiết thực để hưởng ứng Ngày Quốc tế Hạnh phúc.
Những chính sách, pháp luật của Nhà nước cần được đẩy mạnh tuyên truyền trong Ngày Quốc tế Hạnh phúc
Để hưởng ứng Ngày Quốc tế Hạnh phúc, góp phần xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, xã hội công bằng, văn minh; tạo môi trường sống, làm việc hạnh phúc hơn cần: (I) Tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; (ii)Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị lên án, phải bị phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh.
Theo đó, xác định nội dung tuyên truyền về chính sách pháp luật và việc thực hiện chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước về an sinh xã hội, về hôn nhân và gia đình, phòng chống bạo lực gia đình, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc. Đồng thời, tuyên truyền gương người tốt, việc tốt; chuyện thực, việc thực, kinh nghiệm, mô hình hay về các hoạt động vì hạnh phúc, xây dựng gia đình hạnh phúc, cộng đồng hạnh phúc; phê phán những biểu hiện, hành vi bạo lực gia đình, vi phạm pháp luật về gia đình; khuyến khích mọi cá nhân, tổ chức, cộng đồng có hoạt động tích cực đem lại hạnh phúc cho người thân, gia đình và cộng đồng.
Chính sách về an sinh xã hội
Hệ thống an sinh xã hội là một bộ phận trong mô hình phát triển xã hội để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hoạt động của hệ thống an sinh xã hội là nơi thể hiện rõ nhất tính “định hướng xã hội chủ nghĩa” của nền kinh tế thị trường, trong đó, con người luôn có được, bao gồm cả cảm nhận được, một cuộc sống yên ổn và an toàn, có khả năng phòng ngừa những cú sốc và có những “chiếc phao cứu sinh” khi gặp phải những biến cố, rủi ro bất thường.
Từ nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách an sinh xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, ổn định chính trị – xã hội. Diện thụ hưởng chính sách ngày càng mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên. Nguồn lực đầu tư phát triển các lĩnh vực xã hội ngày càng lớn. Nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhất là trong giảm nghèo, tạo việc làm, giáo dục và đào tạo, y tế, trợ giúp người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Đời sống vật chất và tinh thần của người người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiện và đã được quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đặt ra nhiệm vụ “Phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là trong tình hình kinh tế khó khăn, suy giảm”… “Tiếp tục sửa đổi, hoàn chỉnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ, trợ giúp mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế dễ bị tổn thương vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống”; “tập trung triển khai có hiệu quả các chương trình xoá đói, giảm nghèo ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn”. Nghị quyết số 15-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020” cũng yêu cầu “chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ..”, đồng thời thực hiện có trọng tâm, trọng điểm; bảo đảm mức sống tối thiểu và hỗ trợ kịp thời người có hoàn cảnh khó khăn.
Với quan điểm đó, Chính phủ đã đặt ra mục tiêu đến năm 2020 cơ bản hình thành một hệ thống an sinh xã hội bao phủ toàn dân nhằm bảo đảm để người dân có việc làm, thu nhập tối thiểu; tham gia bảo hiểm xã hội, bảo đảm hỗ trợ những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người cao tuổi thu thập thấp, người khuyết tật nặng, người nghèo…); bảo đảm cho người dân tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu (y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin), góp phần giảm nghèo bền vững, ổn định chính trị và phát triển kinh tế – xã hội. Để đạt được mục tiêu trên, cần tập trung vào những nhiệm vụ và giải pháp cụ thể:
Một là, bảo đảm thu nhập tối thiểu và giảm nghèo;
Hai là,phát triển bảo hiểm xã hội;
Ba là, trợ giúp xã hội cho những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn;
Bốn là, tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu (về giáo dục, chăm sóc y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin).
Cùng với những giải pháp nêu trên, công tác lãnh đạo, quản lý Nhà nước, tuyên truyền và hợp tác quốc tế về an sinh xã hội sẽ tiếp tục được đẩy mạnh theo hướng tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền trong việc thực hiện an sinh xã hội; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và người dân về an sinh xã hội.
Pháp luật về hôn nhân và gia đình
Thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng về “xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách” được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2011 – 2020 được thông qua tại Đại hội lần thứ XI của Đảng và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Hôn nhân và gia đình đã ghi nhận những chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên gia đình, nhằm tăng cường và phát huy ý thức trách nhiệm, thái độ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; kế thừa, phát huy các truyền thống đạo đức, văn hóa tốt đẹp của gia đình và dân tộc.
Nhà nước có chính sách, biện pháp bảo hộ hôn nhân và gia đình, tạo điều kiện để nam, nữ xác lập hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng; xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc và thực hiện đầy đủ chức năng của mình; tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hôn nhân và gia đình (về những vấn đề như: Kết hôn; quan hệ giữa vợ và chồng; ly hôn; quan hệ cha, mẹ, con, các thành viên khác trong gia đình; cấp dưỡng; giám hộ; quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội đối với gia đình); vận động nhân dân xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình, phát huy truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc.
Việc tuyên truyền giúp người dân hiểu rõ và thực thiện nghiêm chỉnh pháp luật hôn nhân và gia đình, góp phần xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, bền vững; bảo vệ tốt hơn các quyền con người, quyền công dân, đặc biệt là quyền của phụ nữ, trẻ em trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
Pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình
Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình nhằm nâng cao nhận thức cho người dân về pháp luật, đặc biệt là nắm rõ các hành vi về bạo lực gia đình; nâng cao vai trò, trách nhiệm của cộng đồng, cá nhân trong phòng chống bạo lực gia đình, tập trung đẩy mạnh, nhân rộng các mô hình can thiệp phòng, chống bạo lực gia đình và thực hiện bình đẳng giới; tổ chức các hoạt động bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ công tác gia đình cho đội ngũ cán bộ, cộng tác viên làm công tác gia đình các cấp; tăng cường các hoạt động kiểm tra, giám sát chuyên ngành, liên ngành về công tác gia đình và phòng chống bạo lực gia đình.
Trên thực tế, không có bất kỳ quốc gia nào có thể tạo dựng hạnh phúc cho con người mà thiếu sự đóng góp của từng cá nhân. Nhà nước đóng vai trò tạo ra các cơ chế, chính sách, còn cá nhân từng người dân cũng cần phải tự nỗ lực để mang đến hạnh phúc cho chính bản thân mình. Vì vậy, cùng với cả nước, mỗi người dân hãy phấn đấu thể hiện bằng hành động có ý nghĩa nhất cho gia đình mình và cho quê hương trong giai đoạn hiện nay. Theo đó, mỗi người cần gương mẫu chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia các phong trào thi đua của địa phương; xây dựng gia đình hòa thuận, hạnh phúc, tiến bộ, tương trợ giúp đỡ mọi người trong cộng đồng. Thực hiện tốt những điều đó nghĩa là mỗi người đã góp phần chào đón Ngày Quốc tế Hạnh phúc 20/3, vừa là biểu hiện sự nỗ lực nâng cao chất lượng cuộc sống, xây dựng xã hội công bằng, phát triển bền vững, nhằm đem lại hạnh phúc cho bản thân mình, cho người thân, gia đình và cộng đồng xã hội.