NHỮNG CÂU NÓI HAY CỦA KHỔNG TỬ VỀ PHỤ NỮ

Khi nói tới nữ quyền trong xã hội quân chủ xưa, nhất là trong xã hội Nho giáo, người ta thường viện dẫn câu nói “Chỉ có phụ nữ và tiểu nhân là khó dạy nhất” của Khổng Tử để xem như một bằng chứng cho việc Nho giáo coi rẻ phụ nữ. Đó thật là một nỗi oan của bậc Thánh nhân. Câu nói nguyên gốc của Khổng Tử vốn không có ý khinh miệt phụ nữ, mà bởi vì người đời sau cắt nó khỏi ngữ cảnh, hoặc giả không thấu hiểu Nho giáo, lại có ý bài xích chế độ cũ để lập chế độ mới, nên mới thành ra như vậy.

Bạn đang xem: Những câu nói hay của khổng tử về phụ nữ

*

Phụ nữ và tiểu nhân khó dạy?

Câu nói nguyên gốc của Khổng Tử trong sách Luận ngữ là: “Duy nữ tử dữ tiểu nhân, vi nan dưỡng dã, cận chi tắc bất tốn, viễn chi tắc oán”. Câu này thường được người đời sau dịch là: “Chỉ có phụ nữ và tiểu nhân là khó dạy, gần nó thì nó vô phép, xa nó thì nó oán hận”. Đây là cách hiểu hoàn toàn sai lầm.Nguyên nhân cách hiểu sai lầm này xuất phát từ việc chép Luận ngữ, vốn là một cuốn sách được viết từ đời Tiền Hán tới đời Hậu Hán.Sau khi Khổng Tử qua đời, các môn sinh thu thập lời dạy của thầy, truyền cho nhau, một số người chép lại dùng để dạy học. Môn sinh nghe giảng căn bản là không thể hiểu rõ ngữ cảnh của câu nói. Hơn thế nữa lời dạy của Khổng Tử cùng lời dạy của học trò ông đều bị chép chung vào trong Luận Ngữ. Điều này dẫn tới việc những câu nói như “Duy nữ tử dữ tiểu nhân, vi nan dưỡng dã” hoàn toàn bị tách khỏi hoàn cảnh ban đầu, chỉ đứng một mình trong sách mà không có ngữ cảnh.Trong Tứ thư Ngũ kinh (mà thật ra là Lục kinh, Kinh Nhạc của Khổng Tử đã bị tiêu hủy không còn) thì chỉ có Ngũ kinh là nguyên gốc do Khổng Tử ghi chép và biên soạn. Tứ thư là người đời sau tập hợp và chỉnh lý mà thành. Thêm vào đó, tư tưởng của cổ nhân và của con người hiện đại ngày càng cách biệt nhau, khiến cho việc giải nghĩa chính xác nhiều câu nói của Khổng Tử càng trở nên khó khăn hơn.Thật ra, “nữ tử” ở đây, cũng không phải là chỉ “nữ nhân” (người nữ) thời nay. Thời cổ đại gọi “nhi tử” (con trai), “nữ nhi” (con gái) là “tử” (con), “tử” cũng là chỉ con gái. Ở đây nói “nữ tử”, trước chữ “tử” thêm một chữ “nữ”, là đặc biệt chỉ rõ ra là “nữ nhi” (con gái). Còn từ “dã”, trong “Thuyết văn giải tự” giải thích rằng: “Dữ, tứ dữ dã”, từ “dã” trong ý “giá” (gả) ở đây là “giá dã” (gả cho ai đó). Thế nên, hàm nghĩa cả câu nói này chính là phản ảnh cách thức hay quan điểm chọn rể của Khổng Tử. Có thể trong một dịp chứng kiến sự hư hỏng của vợ một kẻ tiểu nhân mà Khổng Tử đã viết ra câu này.Hàm nghĩa chân chính của câu nói là: Nếu mà gả con gái cho kẻ tiểu nhân, thì sẽ khó mà dạy dỗ được con nữa, gần con thì con vô phép, xa con thì con oán hận. Sự biến đổi của ngôn ngữ và tách khỏi văn cảnh khiến cho người sau không còn hiểu được nghĩa gốc của câu nói, lại còn cho rằng Nho giáo chèn ép nữ quyền.

Khổng Tử và học trò. (Tranh qua violet.vn)Câu nói nguyên gốc của Khổng Tử trong sách Luận ngữ là: “Duy nữ tử dữ tiểu nhân, vi nan dưỡng dã, cận chi tắc bất tốn, viễn chi tắc oán”. Câu này thường được người đời sau dịch là: “Chỉ có phụ nữ và tiểu nhân là khó dạy, gần nó thì nó vô phép, xa nó thì nó oán hận”. Đây là cách hiểu hoàn toàn sai lầm.Nguyên nhân cách hiểu sai lầm này xuất phát từ việc chép Luận ngữ, vốn là một cuốn sách được viết từ đời Tiền Hán tới đời Hậu Hán.Sau khi Khổng Tử qua đời, các môn sinh thu thập lời dạy của thầy, truyền cho nhau, một số người chép lại dùng để dạy học. Môn sinh nghe giảng căn bản là không thể hiểu rõ ngữ cảnh của câu nói. Hơn thế nữa lời dạy của Khổng Tử cùng lời dạy của học trò ông đều bị chép chung vào trong Luận Ngữ. Điều này dẫn tới việc những câu nói như “Duy nữ tử dữ tiểu nhân, vi nan dưỡng dã” hoàn toàn bị tách khỏi hoàn cảnh ban đầu, chỉ đứng một mình trong sách mà không có ngữ cảnh.Trong Tứ thư Ngũ kinh (mà thật ra là Lục kinh, Kinh Nhạc của Khổng Tử đã bị tiêu hủy không còn) thì chỉ có Ngũ kinh là nguyên gốc do Khổng Tử ghi chép và biên soạn. Tứ thư là người đời sau tập hợp và chỉnh lý mà thành. Thêm vào đó, tư tưởng của cổ nhân và của con người hiện đại ngày càng cách biệt nhau, khiến cho việc giải nghĩa chính xác nhiều câu nói của Khổng Tử càng trở nên khó khăn hơn.Thật ra, “nữ tử” ở đây, cũng không phải là chỉ “nữ nhân” (người nữ) thời nay. Thời cổ đại gọi “nhi tử” (con trai), “nữ nhi” (con gái) là “tử” (con), “tử” cũng là chỉ con gái. Ở đây nói “nữ tử”, trước chữ “tử” thêm một chữ “nữ”, là đặc biệt chỉ rõ ra là “nữ nhi” (con gái). Còn từ “dã”, trong “Thuyết văn giải tự” giải thích rằng: “Dữ, tứ dữ dã”, từ “dã” trong ý “giá” (gả) ở đây là “giá dã” (gả cho ai đó). Thế nên, hàm nghĩa cả câu nói này chính là phản ảnh cách thức hay quan điểm chọn rể của Khổng Tử. Có thể trong một dịp chứng kiến sự hư hỏng của vợ một kẻ tiểu nhân mà Khổng Tử đã viết ra câu này.Hàm nghĩa chân chính của câu nói là: Nếu mà gả con gái cho kẻ tiểu nhân, thì sẽ khó mà dạy dỗ được con nữa, gần con thì con vô phép, xa con thì con oán hận. Sự biến đổi của ngôn ngữ và tách khỏi văn cảnh khiến cho người sau không còn hiểu được nghĩa gốc của câu nói, lại còn cho rằng Nho giáo chèn ép nữ quyền.

Xem thêm: Kinh Nghiệm Giảm Béo Bụng Tại Spa, Lời Giải Đáp Của Chuyên Gia

Nữ quyền chân chính trong Nho giáo

Thật ra Nho giáo không chỉ không hạ thấp nữ quyền mà còn đề cao phụ nữ. Hãy thử lấy Tống Nho, thời điểm chế độ tông tộc hưng khởi tại Trung Hoa, làm ví dụ.Về phương diện giáo dục, khi Âu Dương Tu mới học chữ, là do mẹ dạy, còn lưu lại câu chuyện về việc lấy lau làm bút. Thời niên thiếu của Tô Thức (Tô Đông Pha), cũng do mẹ dạy đọc “Hán thư”. Chu Tất Đại thời niên thiếu, mẹ cũng “trực tiếp đốc thúc đọc sách, thường thức tới nửa đêm… lại dạy làm thơ”. Dựa vào thành tựu của các đại phu nhà Tống, thì sự dạy dỗ của người mẹ thời vỡ lòng quả thực là không thể không nhắc đến. Như vậy chẳng phải các bậc mẫu thân xưa cũng rất mực trí tuệ?Tô Thức hay Tô Đông Pha là một nhà văn, nhà thơ nổi tiếng nằm trong Bát đại gia Đường Tống.Lại nói về phương diện trị gia, thường thường người xưa là từ “nghiêm” mà trị. Ví dụ khi một vị quan nổi tiếng thời Tống là Bao Thanh Thiên qua đời, thì vợ ông là Đổng thị liền tiếp quản vị trí chủ gia đình “trang nghiêm chặt chẽ”, xử lý các mối quan hệ thân thiết thì cũng giống như Bao Chửng, “phàm là việc phi nghĩa, thì nhất định không liên quan”, những lúc rảnh rỗi thì “đọc sách Phật để tu tính”. Vậy thì đâu thể nói rằng người phụ nữ không thể đảm đương trách nhiệm gia đình?Hơn thế nữa, phụ nữ cũng không chỉ giới hạn là người tiếp quản gia đình, mà cũng trợ giúp lo việc bên ngoài. Ví dụ như khi Mai Nghiêu Thần tiếp đãi các sĩ phu xử lý công sự, thì vợ là Tạ thị thường đứng sau bình phong lắng nghe, sau đó cùng với Mai Nghiêu Thần bàn bạc xem sĩ phu có phải là người hiền hay không, việc đó được mất thế nào, phân tích rất cụ thể và rõ ràng. Mai Nghiêu Thần cũng tán thưởng vợ với người ngoài. Điều này nói rõ rằng thời đó kẻ sĩ đại phu tán thành phụ nữ tham dự vào việc công, không có ai cho rằng đó là “phụ nữ tiếm quyền” cả.Đằng sau nhà thơ Mai Nghiêu Thần nổi tiếng thời Tống là người vợ Tạ thị.Nói đến sự tôn sùng đối với địa vị của phụ nữ thời đó, thì không thể bỏ qua việc người phụ nữ tham gia chính sự. Các học giả hiện đại cho rằng sự hạ thấp địa vị của phụ nữ là bắt đầu từ thời nhà Tống, trên thực tế thời Tống lại là thời có nhiều Thái Hậu buông rèm nghe chính sự nhất, trong đó phải kể đến:Chân Tông Lưu Hậu: Bà thông tường sách sử cổ kim, am hiểu chính sự, giúp đỡ được vua Chân Tông. Mỗi ngày phê đọc tấu chương và đi vi hành, bà đều phải ở bên vua. Khi Chân Tông lâm trọng bệnh, các việc chính sự tâu lên thực chất đều do một tay bà thu xếp. Sau này, bệnh của vua ngày càng nặng, liền hạ chiếu chính thức giao việc triều chính cho hoàng hậu. Khi Chân Tông mất, bà trở thành Hoàng thái hậu nhiếp chính đầu tiên của thời Tống, thực hiện quá trình chuyển giao quyền lực từ thời Chân Tông sang thời Nhân Tông một cách êm thấm, tạo cơ sở cho sự phát triển phồn vinh của nhà Tống ở thời vua Nhân Tông.***

Thật ra Nho giáo không chỉ không hạ thấp nữ quyền mà còn đề cao phụ nữ. Hãy thử lấy Tống Nho, thời điểm chế độ tông tộc hưng khởi tại Trung Hoa, làm ví dụ.Về phương diện giáo dục, khi Âu Dương Tu mới học chữ, là do mẹ dạy, còn lưu lại câu chuyện về việc lấy lau làm bút. Thời niên thiếu của Tô Thức (Tô Đông Pha), cũng do mẹ dạy đọc “Hán thư”. Chu Tất Đại thời niên thiếu, mẹ cũng “trực tiếp đốc thúc đọc sách, thường thức tới nửa đêm… lại dạy làm thơ”. Dựa vào thành tựu của các đại phu nhà Tống, thì sự dạy dỗ của người mẹ thời vỡ lòng quả thực là không thể không nhắc đến. Như vậy chẳng phải các bậc mẫu thân xưa cũng rất mực trí tuệ?Tô Thức hay Tô Đông Pha là một nhà văn, nhà thơ nổi tiếng nằm trong Bát đại gia Đường Tống.Lại nói về phương diện trị gia, thường thường người xưa là từ “nghiêm” mà trị. Ví dụ khi một vị quan nổi tiếng thời Tống là Bao Thanh Thiên qua đời, thì vợ ông là Đổng thị liền tiếp quản vị trí chủ gia đình “trang nghiêm chặt chẽ”, xử lý các mối quan hệ thân thiết thì cũng giống như Bao Chửng, “phàm là việc phi nghĩa, thì nhất định không liên quan”, những lúc rảnh rỗi thì “đọc sách Phật để tu tính”. Vậy thì đâu thể nói rằng người phụ nữ không thể đảm đương trách nhiệm gia đình?Hơn thế nữa, phụ nữ cũng không chỉ giới hạn là người tiếp quản gia đình, mà cũng trợ giúp lo việc bên ngoài. Ví dụ như khi Mai Nghiêu Thần tiếp đãi các sĩ phu xử lý công sự, thì vợ là Tạ thị thường đứng sau bình phong lắng nghe, sau đó cùng với Mai Nghiêu Thần bàn bạc xem sĩ phu có phải là người hiền hay không, việc đó được mất thế nào, phân tích rất cụ thể và rõ ràng. Mai Nghiêu Thần cũng tán thưởng vợ với người ngoài. Điều này nói rõ rằng thời đó kẻ sĩ đại phu tán thành phụ nữ tham dự vào việc công, không có ai cho rằng đó là “phụ nữ tiếm quyền” cả.Đằng sau nhà thơ Mai Nghiêu Thần nổi tiếng thời Tống là người vợ Tạ thị.Nói đến sự tôn sùng đối với địa vị của phụ nữ thời đó, thì không thể bỏ qua việc người phụ nữ tham gia chính sự. Các học giả hiện đại cho rằng sự hạ thấp địa vị của phụ nữ là bắt đầu từ thời nhà Tống, trên thực tế thời Tống lại là thời có nhiều Thái Hậu buông rèm nghe chính sự nhất, trong đó phải kể đến:Chân Tông Lưu Hậu: Bà thông tường sách sử cổ kim, am hiểu chính sự, giúp đỡ được vua Chân Tông. Mỗi ngày phê đọc tấu chương và đi vi hành, bà đều phải ở bên vua. Khi Chân Tông lâm trọng bệnh, các việc chính sự tâu lên thực chất đều do một tay bà thu xếp. Sau này, bệnh của vua ngày càng nặng, liền hạ chiếu chính thức giao việc triều chính cho hoàng hậu. Khi Chân Tông mất, bà trở thành Hoàng thái hậu nhiếp chính đầu tiên của thời Tống, thực hiện quá trình chuyển giao quyền lực từ thời Chân Tông sang thời Nhân Tông một cách êm thấm, tạo cơ sở cho sự phát triển phồn vinh của nhà Tống ở thời vua Nhân Tông.Chân Tông Lưu Hậu.Nhân Tông Tào Hậu: Tào hoàng hậu tinh thông kim cổ, là người hiền đức. Vì dung mạo của bà không đặc biệt xuất chúng nên không được vua Nhân Tông sủng ái nhiều. Nhưng đối với các mỹ nhân đắc sủng, bà cũng không hề tính toán so đo. Bà trở thành Hoàng thái hậu nhiếp chính dưới thời Tống Anh Tông Triệu Thự, và trở thành Thái hoàng thái hậu đầu tiên của nhà Tống dưới thời Tống Thần Tông Triệu Húc.Nhân Tông Tào Hậu phụ tá hai đế vương Tống Anh Tông và Tống Thần TôngAnh Tông Cao Hậu: Trong thời gian chấp chính, bà chủ trương tiết kiệm, thực thi lễ pháp anh minh, đất nước yên bình và hưng thịnh. Bà được đánh giá có tài chấp chính, làm đất nước phồn vinh, ngoài ra cũng nổi tiếng bởi sự hiền minh lễ độ. Sử gia Tống triều xưng bà làm “Nữ trung Nghiêu Thuấn”, hàm ý ví bà như bậc kiệt xuất của nữ nhi, cũng giống như vua Nghiêu vua Thuấn thời cổ đại là hình tượng mà nam nhi theo đuổi.Anh Tông Cao Hậu.Thần Tông Hướng Hậu: Hướng hoàng hậu giữ ngôi chính cung trong vòng 18 năm, được đánh giá là hiền huệ, ôn hòa lễ độ, quán chủ hậu cung một cách anh minh, sáng suốt. Bà trở thành hoàng thái hậu dưới thời Tống Triết Tông, và có vai trò quan trọng trong việc đăng cơ của Tống Huy Tông. Khi Huy Tông lên ngôi, Hướng thái hậu sau sáu tháng nghe chính sự, hạ chỉ hết buông rèm, từ đó Tống Huy Tông đích thân chấp chính.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *