Cuộc cách mạng Pháp 1789

oath

Phạm Văn Tuấn

Trong khoảng thời gian từ năm 1760 tới năm 1840, vai trò của nước Pháp trên thế giới rất quan trọng. Nếu không có sự can thiệp quân sự của người Pháp tại Bắc Mỹ, người Mỹ chưa chắc đã giành được Độc Lập và Tự Do từ người Anh để rồi thiết lập nên một quốc gia mới, các định chế mới. Ảnh hưởng của người Pháp đã tới các xứ Ái Nhĩ Lan (Ireland), Ba Lan, Hòa Lan, Ý và nhiều miền đất khác. Nước Pháp đã là trung tâm của các phong trào trí thức trong thế kỷ 18. Khoa Học của nước Pháp đã dẫn đầu Thế Giới. Các sách học, báo chí, tạp chí… viết về Văn Hóa và Chính Trị bằng tiếng Pháp được các nhà trí thức thuộc nhiều quốc gia tìm đọc và các ý tưởng, sáng kiến, phát minh của người Pháp được các dân tộc khác trên Thế Giới theo dõi và bắt chước. Tiếng Pháp đã là một ngôn ngữ quốc tế, dùng cho các nhà trí thức và giới quý tộc của nhiều quốc gia.

Nước Pháp với dân số 24 triệu người vào giữa thế kỷ 18, là một miền đất giàu có nhất và đông dân nhất dưới quyền một chính phủ trung ương trong khi vào thời gian này, nước Đức còn bị chia rẽ, nước Nga chưa ổn định và dân số của cả nước Anh và Tô Cách Lan cộng lại mới được 10 triệu người. Thành phố Paris tuy nhỏ hơn so với thành phố London về diện tích nhưng lại rộng gấp hai lần các thành phố Vienna và Amsterdam. Tiền vàng của nước Pháp được lưu hành khắp châu Âu và chiếm một nửa số lượng ngoại tệ giao dịch, và số lượng hàng hóa xuất cảng của nước Pháp qua các nước khác của châu Âu đã lớn hơn số lượng hàng hóa của nước Anh. Nhưng trong hoàn cảnh phát triển với ảnh hưởng rộng lớn như vậy, cuộc Cách Mạng Pháp đã bùng nổ, làm rung động cả châu Âu, đã lật đổ chế độ cũ bằng một thứ “xã hội mới” và là một khuôn mẫu mà các phong trào cách mạng sau này hướng vào, coi cuộc Cách Mang Pháp năm 1789 là một cách mạng đi trước.

1- Nguyên nhân xa của cuộc Cách Mạng Pháp.

louis14-cheval

Louis XIV cỡi ngựa

Chế độ chuyên chế sáng suốt (enlightened despotism) có thể được dẫn chứng bằng đường lối cai trị của Vua Louis 14 tại nước Pháp hay của Đại Đế Peter tại nước Nga. Vào thời đại chuyên chế này, các nhà cai trị đã khai quang các vùng đất sình lầy, mở mang đường lộ, xây dựng cầu cống, đặt ra luật lệ, dẹp bớt các quyền tự trị địa phương, giới hạn tính độc lập của nhà thờ và giới quý tộc đồng thời đào tạo ra một tầng lớp viên chức thuộc quyền chính phủ trung ương. Nhà vua vào thời kỳ này đã mang tính chất thế tục, không tự cho rằng quyền hành là do “Thiên Mệnh” và chịu trách niệm cai trị thần dân thay “Trời”. Nhà vua đã xác nhận quyền hành của mình do sự hữu ích của ngai vàng đối với xã hội và cũng vì thế, Đại Đế Frederic đã tự gọi mình là “người công bộc bậc nhất của quốc gia” (the first servant of the state). Tính cách của chế độ chuyên chế sáng suốt đã thể hiện rõ tại các nước Pháp, Áo, Phổ, Nga, Tây Ban Nha, Đan Mạch và Anh…

Tại nước Pháp, sự chuyên chế sáng suốt của nhà vua đã gặp thất bại. Vua Louis 15 lên ngai vàng năm 1715 và trị vì tới năm 1774, đã sống trong cung điện Versailles tráng lệ và không quan tâm tới các vấn đề hệ trọng của đất nước. Nền quân chủ của nước Pháp gặp nhiều khó khăn, nhất là trong phương pháp thu thuế. Phần lớn nguồn lợi của quốc gia do việc thu thuế và có một phần thuế do việc bán đi một số đặc quyền. Trong các thứ thuế, quan trọng nhất là thuế đất (taille), sau đó là thuế muối (gabelle). Thông thường chỉ có giới nông dân phải nộp thuế đất và theo nguyên tắc, thuế đất được miễn trừ cho giới quý tộc, các viên chức chính quyền và giới tư sản, trong khi đó nhà thờ có khoảng 5 % tới 10 % đất đai, cũng được miễn thuế vì đã tặng đều đặn cho nhà vua các món quà, dù rằng những thứ quà này ít hơn loại thuế trực thu.

Mặc dù nước Pháp là một quốc gia giàu có và phong phú tài nguyên, nhưng về lâu dài, chính quyền Pháp trở nên nghèo khó đi vì những tầng lớp xã hội được thụ hưởng sự thịnh vượng lại không phải trả thuế theo lợi tức của họ. Do áp lực chiến tranh, Vua Louis 14 đã bắt người dân Pháp phải đóng thuế thân (poll tax) và thuế 10 % tính trên lợi tức, nhưng nhiều người đã tìm cách trốn tránh các loại thuế này. Năm 1726, việc thu thuế cũng gặp thất bại vì việc trả thuế trực thu chứng tỏ người đóng thuế thuộc đẳng cấp thấp kém (inferior status) trong xã hội. Các nhà quý tộc, giới tu sĩ, giới tư sản cũng phản đối việc đóng thuế vì họ không có trách nhiệm và không có quyền kiểm soát chính trị hay hành chánh đối với xã hội mà họ đang sinh sống. Họ đòi hỏi nhà vua phải tôn trọng nguyên tắc là không có thuế nếu không có đại diện của các tầng lớp dân chúng.

Tới thập niên 1740, do phí tổn chiến tranh của nước Pháp quá cao, một loại thuế mới lại được ban hành theo đó, mọi lợi tức từ mọi tài sản phải chịu thuế 5 %: đất đai, đầu tư thương mại và các quyền lợi khác. Không ai được miễn thuế cả, dù thuộc tầng lớp xã hội nào, dù trước kia đã được miễn thuế rồi… nhưng trên thực tế, loại thuế 5 % này chỉ được đánh vào đất đai.

Khi chính quyền Pháp thời đó tăng thuế, tiếng phản đối dữ dội đã nổi lên từ Nghị Viện Paris, từ các nghị viện 11 tỉnh, từ miền Brittany và từ giáo hội. Tất cả các tổ chức này đã mạnh hơn thời trước. Những người phản đối chính quyền trung ương Pháp đã viện dẫn các lời nói của Montesquieu (1689-1755). Trong tác phẩm “Tinh Thần Luật Pháp” (the Spirit of the Laws) xuất bản năm 1748, ông Montesquieu đã làm phát triển hai ý tưởng chính. Ý tưởng thứ nhất cho rằng các hình thức chính quyền thay đổi tùy theo khí hậu và hoàn cảnh, chẳng hạn như thể chế chuyên chế (despotism) chỉ thích hợp với loại đế quốc rộng lớn tại miền khí hậu nóng và chế độ dân chủ chỉ hữu hiệu tại các quốc gia thành phố nhỏ bé (small city-states). Ý tưởng thứ hai nhắm vào sự độc đoán thuộc vương quyền (royal absolutism) của nước Pháp.

Montesquieu đã tin tưởng rằng cần phải có sự phân chia và cân bằng quyền lực (the separation and balance of power) giữa nhà Vua và các cơ chế trung gian, chẳng hạn như các nghị viện, giới quý tộc, giới tu sĩ hay nhà thờ. Triết gia Montesquieu cũng đã khâm phục các thể chế chính trị của nước Anh theo đó có sự hòa hợp giữa vương quyền, giới quý tộc và nền dân chủ (monarchy, aristocracy and democracy) thể hiện bằng nhà Vua, các nhà quý tộc và các viện dân cử. Lý thuyết về sự phân quyền giữa Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp của Montesquieu đã ảnh hưởng rất mạnh tới các người Mỹ khiến cho các nhà lập quốc Bắc Mỹ viết ra Bản Hiến Pháp Hoa Kỳ năm 1787.

Thời đó, các nghị viện của nước Pháp đã cương quyết cho rằng việc tăng thuế là vi hiến (unconstitutional) và vi phạm vào các tự do lịch sử của họ (historic liberties). Sau nhiều tranh chấp, Vua Louis 15 đành phải xếp việc tăng thuế sang một bên. Nhưng khi cuộc chiến tranh 7 năm (1756-1763) chấm dứt, vương quyền của nước Pháp lại muốn tăng cường việc tập trung quyền lực vào trung ương nên đã quyết định hủy bỏ các nghị viện vì đây là các lực lượng chính trị chống đối. Vì mục đích này, vào năm 1768, Vua Louis 15 đã bổ nhiệm ông Maupeou làm thủ tướng để giải tán các nghị viện cũ đồng thời thiết lập ra các nghị viện mới thay thế. Nhân viên của các hội đồng mới này là các viên chức được bổ nhiệm, ăn lương, không được bỏ phiếu chống đối các đạo luật của chính quyền, có tính đồng nhất trên cả nước Pháp và một dự tính của các hội đồng này là sẽ đánh thuế vào các tầng lớp xã hội đã được ưu đãi hay miễn thuế trước kia.

Năm 1774, Vua Louis 15 qua đời, nối ngôi là người cháu tức Vua Louis 16 mới 20 tuổi, một người vụng về và nhút nhát, ưa thích cưỡi ngựa, săn bắn và làm các ổ khóa. Khuyết điểm của nhà vua trẻ này là tính do dự, sẵn sàng nghe lời các cố vấn và khi có những lời khuyên sáng suốt, mọi việc đều tốt đẹp nhưng khi nhà vua gặp các lời khuyên thiển cận, kết quả là những nguy hại cho chính mạng sống của nhà vua.

Việc tăng thuế của ông Maupeou và các người cộng tác với ông cũng đã gặp chống đối, nhiều nơi tố cáo ông là kẻ thừa hành của một chế độ chuyên chế và họ đòi hỏi phải lập lại Nghị Viện Paris và các nghị viện cũ. Vua Louis 16 vì do dự, đã ra lệnh giải nhiệm ông Maupeou và làm phục hồi các nghị viện cũ. Thực ra, chính các nghị viện cũ này đã ngăn trở các cải cách, đã là cứ điểm của giới quý tộc và các người hưởng đặc quyền trong nhiều thập niên.

Cũng vào năm 1774, Vua Louis 16 thành lập một bộ cải cách, đứng đầu là ông Jacques Turgot. Đây là một nhà triết học và cũng là một nhà cai trị có kinh nghiệm. Khi lên nắm quyền, ông Turgot đã tìm cách dẹp bỏ các phường thợ thủ công (guilds) vì các loại nghiệp đoàn này đã chiếm được sự độc quyền ưu đãi tại các thành thị. Ông Turgot cũng cho phép ngành nội thương về ngũ cốc được tự do hơn và tìm cách hủy bỏ loại tạp dịch bắt buộc (corvée) theo đó mọi công dân phải sửa chữa đường lộ trong vài ngày mỗi năm và thay thế bằng tiền đánh thuế lên mỗi đầu người dân thuộc mọi giai cấp. Trước chương trình cải cách này, Nghị Viện Paris được sự ủng hộ của các thành phố khác và nhà thờ, đã phản đối ông Turgot dữ dội, khiến cho ông ta phải từ chức vào năm 1776. Việc canh tân như vậy đã bất thành.

Năm 1778, nước Pháp giao chiến với nước Anh. Các đòi hỏi lại tái diễn: các phí tổn vì chiến tranh, các món nợ, các dự án đánh thuế, các chống đối từ các nghị viện và từ các thành phần của dân chúng… và kết quả là vào thập niên 1780, cuộc Cách Mạng đã bùng nổ.

2- Ba giai cấp trong chế độ cũ của nước Pháp.

Thể chế chính trị của nước Pháp trước cuộc Cách Mạng năm 1789 vừa mang tính quý tộc, vừa có tính phong kiến. Năm 1302, vì sự chống đối Giáo Hoàng và vì cần tới sự ủng hộ của nhiều tầng lớp trong dân chúng, Vua Philip IV của nước Pháp đã kêu gọi các đại biểu của xã hội Pháp đứng vào trong 3 giai cấp (estates) và mỗi người dân thuộc về một trong ba giai cấp này. Giai cấp thứ nhất là giới tu sĩ, giới quý tộc thuộc giai cấp thứ hai còn giai cấp thứ ba gồm những người còn lại, từ các nhà buôn giàu có, các nhà trí thức tới lớp nông dân nghèo hèn và giới công nhân thành thị. Quyền lợi pháp lý cùng uy tín cá nhân của một công dân tùy thuộc vào loại giai cấp của người công dân đó trong khi trên thực tế, tài sản, các sinh hoạt sản xuất cùng ảnh hưởng xã hội, chính trị, đã không tương xứng với sự phân loại giai cấp kể trên.

Giai cấp thứ nhất của nước Pháp thời đó là giới tu sĩ. Địa vị và các điều kiện ưu đãi của Nhà Thờ đã là một trong các nguyên nhân chính gây ra cuộc cách mạng. Các vị giám mục thời đó thường đóng các vai trò quan trọng trong công quyền và Nhà Thờ Thiên Chúa Giáo cũng đã thu thuế trên các sản phẩm thu hoạch được từ những đất đai sở hữu. Vào các năm trước cuộc Cách Mạng 1789, có vào khoảng 100,000 tu sĩ Catholic trên nước Pháp, và nhà thờ, trường học, các tu viện và các cơ sở tôn giáo khác đã chiếm hữu từ 5 % tới 10 % đất đai toàn quốc với tài sản tập trung không đều, phần lớn dồn vào các giám mục cao cấp.

Giới quý tộc là giai cấp thứ hai, có vào khoảng 400,000 người kể cả phụ nữ và trẻ em. Họ giữ độc quyền tại các cơ quan cao cấp của chính phủ, các tổ chức quân đội và nghị viện. Cùng với giới tu sĩ, các nhà quý tộc đã ngăn trở việc thu thuế và lo tìm cách kiểm soát các chính sách quốc gia.

Trong các năm từ 1713 tới 1789, nền ngoại thương của nước Pháp đã tăng lên gấp 5 lần nên cũng làm gia tăng giới thương nhân và viên chức của chính phủ. Họ là thành phần của giai cấp tư sản, một lớp người dần dần trở nên giàu có, đông đúc hơn và cũng tự tin hơn, nhưng họ cũng bất mãn đối với các ưu đãi, các đặc quyền, các kiêu ngạo…của giới tu sĩ và giới quý tộc. Do càng ngày càng trở nên giàu có hơn, giới tư sản đã cảm thấy bị kỳ thị trong việc chấp nhận vào các chức vụ của chính quyền, trong các vai trò và danh dự của xã hội là những thứ thường dành cho giới quý tộc. Cuộc cách mạng đã xẩy ra là do sự xung đột giữa hai tầng lớp xã hội đang đi lên: giới quý tộc và giới tư sản.

Dưới tận cùng trong xã hội là lớp người bình dân, sống bằng tiền lương lao động, họ là các nông dân, các thợ thủ công, các công nhân nhà máy… Họ đã sống nhờ bán sức lao động và sản phẩm trên các loại thị trường và chính họ đã đóng một vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng.

Nước Pháp vào thế kỷ 18 có 4 phần 5 dân chúng là nông dân. Đây không phải là lớp người “nông nô” như tại nước Nga. Họ canh tác trên mảnh đất của họ, hoặc trên đất thuê rồi nộp lợi tức thu hoạch cho chủ đất. Nhưng vào thời đó vẫn còn một số đặc tính của thời đại phong kiến với các thái ấp (manor) có các nhà quý tộc làm chủ. Những người này có đặc quyền “săn bắn” (banalité) hay duy trì các con mồi săn trên đất đai của mình và của các nông dân khác. Các nhà quý tộc lại có các độc quyền về các nhà máy xay lúa, các nhà máy ép rượu, các lò bánh mì…, có uy quyền về tòa án, về chính quyền địa phương và có quyền thu một số lệ phí và tiền phạt.

Vào thời kỳ trước cuộc cách mạng, giới nông dân chiếm vào khoảng 2/5 đất đai, giới tư sản trên 1/5, nhà thờ có dưới 1/10, số còn lại là đất công gồm cả đất hoang hay các vùng sình lầy, các vùng đất chưa khai phá. Với hệ thống đất đai khá phức tạp như thế, lại không có hàng rào ngăn cách, phân chia các mảnh đất, không có cách ấn định các quyền hạn và quyền lợi về đất đai, cuộc cách mạng vì thế là một cơ hội để làm biến đổi các luật lệ về tài sản (the law of property) và quy định các định chế về quyền tư hữu trên các mảnh đất, đặc biệt có lợi cho giới tư sản và giới nông dân có đất.

Giới tư sản thời trước Cách Mạng Pháp cũng là lớp người sở hữu các hàng hóa, các cơ sở sản xuất, các công việc thương mại, họ dần dần trở nên giàu có hơn trong khi giới quý tộc phải đương đầu với vật giá gia tăng, với mức sống lên cao nên đã tìm cách tăng thuế, làm khó khăn các hợp đồng thuê đất, các dàn xếp về trả nợ hoa màu của giới nông dân. Người nông dân trực tiếp canh tác trên mảnh đất đã phẫn nộ vì các bất công kinh tế, xã hội cũng như chính trị, họ cảm thấy chính họ mới là người làm chủ miếng đất canh tác, chính họ đã bị áp bức và bóc lột. Chuột có thể phá hủy hoa màu, chim bồ câu thường ăn lúa của họ nhưng nông dân không được quyền giết chuột, giết chim… vì các loại này được bảo vệ để các nhà quý tộc săn bắn. Các đoàn thợ săn cũng dẫm nát hoa màu của nông dân mà người dân lành không có quyền khiếu nại hay đòi bồi thường. Bổn phận của họ là phải đóng thuế cho nhà Vua, nhà thờ và các nhà quý tộc. Tất cả bổn phận của người nhà nông càng trở nên vô lý khi người dân đã bắt đầu hiểu được các định luật về lẽ phải, khi các nhà văn của thời đại đó đã đề cập tới các tư tưởng mới về công bằng và như thế đã giúp thêm vào việc khuấy động các bất mãn.

Nước Pháp vào thế kỷ 18 đã là một quốc gia có chính quyền tập trung nên các điều kiện xã hội nếu bị biến động tại kinh đô, đã ảnh hưởng tới cả nước. Khủng khoảng đầu tiên của nước Pháp là do tài chính, và cũng do sự sụp đổ tài chính (financial collapse) của chính quyền mà cuộc cách mạng đã tới một cách nhanh chóng. Chính quyền Pháp thời kỳ đó đã chịu gánh nặng vì sự xa hoa, sự huy hoàng của Cung Điện Versailles. Cung điện rực rỡ này đã được xây cất theo sáng kiến của Vua Louis 14. Cùng với các kiến trúc sư, các nhà điêu khắc, các nhà thiết trí vườn cảnh… tài giỏi nhất thời bấy giờ, Vua Louis 14 đã chi phí 65 triệu quan tiền (livres)(so với phí tổn xây cất một căn nhà thông thường là 20 quan) trong hơn 40 năm để biến Hoàng Cung Versailles thành một lâu đài rực rỡ nhất của châu Âu. Các phòng kính và hành lang tráng lệ, các khu vườn rộng rãi và trồng tỉa công phu… tất cả đã biểu lộ sự sang trọng của nước Pháp và uy quyền bao la của nhà Vua. Cũng chính tại cung điện Versailles, các hầu tước, bá tước… đã cùng nhau tham dự với nhà Vua vào các yến tiệc, các đoàn thượng khách xe ngựa lộng lẫy, đi vui chơi, đi săn bắn… với các loại quần áo sang trọng, với cách tiêu xài phí phạn… tất cả những xa hoa này đã làm phá sản giai cấp quý tộc. Sự xa hoa đó vẫn tiếp tục tới thời Vua Louis 16 và Hoàng Hậu Marie Antoinette, vốn người nước Áo, cũng đã chi tiêu các món tiền rất lớn lao vào quần áo, nữ trang và các giải trí khác khiến cho bà Hoàng này được gọi bằng biệt danh: bà Thiếu Hụt (Madame Deficit).

Ngoài việc tiêu xài phung phí của triều đình, việc bảo trì các cung điện đã chiếm 5 phần trăm ngân quỹ quốc gia. Chính quyền Pháp thời đó còn phải chi phí về các phí tổn chiến tranh, về việc duy trì quân đội và hải quân… Năm 1774, nước Pháp mắc nợ 93 triệu quan tiền (93 million livres) rồi tiền nợ quốc gia hàng năm tăng lên tới 300 triệu quan tiền vào năm 1789 và tổng số nợ đã lên tới 4 tỉ quan tiền (4 billion livres). Món nợ lại càng trở nên to lớn do nước Pháp giúp công giúp của vào cuộc chiến tranh giành độc lập của Hoa Kỳ.

Nợ nần của nước Pháp càng tăng thêm do việc miễn thuế, do việc trốn thuế của những người được ưu đãi, do sự phức tạp và thiếu hoàn hảo của hệ thống thu thuế khiến cho các món tiền thu được đã không được nộp đầy đủ vào ngân quỹ của đất nước. Cho nên mặc dù nước Pháp là một miền đất trù phú, ngân quỹ của nước Pháp lại trống rỗng. Những người chịu trách nhiệm về ngân quỹ đó gồm cả Vua Louis 16, các ông John Law, Maupeou, Jacques Turgot… tất cả đã nhìn thấy rõ việc cần phải đánh thuế vào các giai cấp được ưu đãi.

Năm 1777, ông Jacques Necker được Vua Louis 16 bổ nhiệm làm Giám Đốc Tài Chính, đã đi theo con đường của những vị đi trước và cũng bị bãi nhiệm. Kế tiếp ông Necker, ông Calonne còn đưa ra các biện pháp mạnh hơn. Năm 1786, ông Calonne đã đề nghị một thứ thuế tổng quát đánh lên mọi chủ đất mà không một ai được miễn trừ, đề nghị việc giảm nhẹ thuế gián thu và hủy bỏ thuế nội thương để khuyến khích kinh tế sản xuất trong nước, đề nghị việc tịch thu một số tài sản của nhà thờ, việc thiết lập các hội đồng địa phương trong đó các giới tu sĩ, quý tộc, tư sản và nông dân đều có đại diện. Nếu chương trình cải cách của ông Calonne này được thực hiện, các trở ngại tài chính đã có thể được giải quyết và cuộc cách mạng đã không xẩy ra, nhưng Nghị Viện Paris đã không chấp nhận các cải cách và các nhà quý tộc lại muốn tham gia vào việc kiểm soát chính quyền. Bế tắc đã tới.

Vua Louis 16 đành phải bãi nhiệm ông Calonne và chỉ định vị Tổng Giám Mục miền Toulouse là ông Lomenie de Brienne. Ông De Brienne cũng muốn xúc tiến một chương trình cải cách tương tự thông qua Nghị Viện Paris (the Parlement of Paris) và đã bị chính nghị viện này bác bỏ và cho rằng chỉ có Đại Hội Các Giai Cấp (an Estates General) mới có quyền đồng ý về các thứ thuế mới. Vua Louis 16 và ông De Brienne lúc đầu từ chối đề nghị đó vì cho rằng Đại Hội đó sẽ bị chi phối bởi giới quý tộc. Cũng giống như Vua Louis 15 và thủ tướng Maupeou, Vua Louis 16 và ông De Brienne không ưa các nghị viện mà muốn có một hệ thống tư pháp mới không gây ảnh hưởng đến các chính sách của đất nước. Điều này đã dẫn tới sự phẫn nộ của giới quý tộc. Các nghị viên thành phố, các giai cấp trong thị xã đã phản kháng lại, các sĩ quan quân đội từ chối phục vụ, các nhà quý tộc tổ chức các nhóm chính trị… Chính quyền bị đưa tới cảnh trì trệ với tiền không mượn được, thuế không thu được.

Ngày 5 tháng 7 năm 1788, Vua Louis 16 hứa hẹn sẽ triệu tập một Đại Hội các giai cấp vào tháng 5 năm 1789. Các giai cấp trong xã hội Pháp khi đó sẽ được mời tới để bầu ra các đại biểu và đưa danh sách các khiếu nại.

3- Từ Đại Hội Giai Cấp đến Cuộc Cách Mạng

Một thế kỷ rưỡi trôi qua mà chưa có Đại Hội các Giai Cấp (Estates General) nên Vua Louis 16 đã kêu gọi mọi người cùng nghiên cứu vấn đề về Đại Hội và viết ra các đề nghị để Đại Hội sẽ được tổ chức trong các điều kiện và hoàn cảnh mới. Sự việc này gây nên các cuộc thảo luận công cộng. Hàng trăm tờ truyền đơn xuất hiện, nhiều người đòi hỏi ba giai cấp phải họp tại ba nơi riêng biệt vì giai cấp bình dân bao giờ cũng áp đảo. Tháng 9-1788, Nghị Viện Paris họp lại, đã quyết định rằng Đại Hội các giai cấp sẽ họp và sẽ bỏ phiếu như đã xẩy ra vào năm 1614.

Cũng qua Nghị Viện Paris, giới quý tộc muốn lấn át sự chuyên chế của nhà Vua. Họ đòi hỏi một chính quyền theo hiến pháp, đòi hỏi sự bảo đảm các tự do cá nhân, sự tự do về ngôn luận và báo chí, sự ngăn ngừa không bị bắt bớ và giam cầm tùy tiện. Một số nhà quý tộc cũng đã tự nguyện từ bỏ các đặc quyền về miễn thuế trong khi đa số khác trông đợi chính quyền tổ chức một cơ chế tối cao gồm 3 thành phần, một phần thuộc giới quý tộc, phần thứ hai là giới tu sĩ nhưng cũng là quý tộc và phần thứ ba là giới bình dân. Tới lúc này, giai cấp thứ ba (the Third Estate) gồm các luật sư, thương nhân, chủ ngân hàng, chủ tiệm, thợ thủ công, công nhân và nông dân… lại không muốn bị giới quý tộc cai trị về tinh thần lẫn vật chất. Nền triết lý của thời kỳ Khai Sáng (the Enlightment) rồi cuộc Cách Mạng tại Bắc Mỹ đã khiến cho họ không ưa và không tin tưởng giới quý tộc.

Một nhà văn người Pháp là ông Hector St. John de Crèvecoeur, trong bài viết có tên là “Các bức thư của một nông dân Mỹ” (Letters of an American Farmer) đã cho mọi người thấy rằng vào lúc này, các người Mỹ đã tự cảm thấy là những “con người” vì họ đã được đối xử xứng đáng. Người đại diện cho cuộc chiến tranh giành độc lập của Bắc Mỹ tại nước Pháp chính là ông Benjamin Franklin, người đã được Quốc Hội Lục Địa (the Continental Congress) cử qua Paris để lo mọi việc cần thiết cho quốc gia non trẻ Hoa Kỳ. Các nhà triết học, các nhà trí thức tại các nơi họp mặt (salon) của thành phố Paris đã phải kính nể ông Franklin vì sự trí thức và đức tính giản dị của ông. Ông Franklin đã gây được các ấn tượng rất tốt đẹp vào các nhân vật danh tiếng quen biết của nước Pháp như Voltaire, Condorcet, Helvetius, Turgot cùng các nhân vật khác, và hình ảnh giành lấy Tự Do của xứ Bắc Mỹ đối với chế độ áp bức đã khiến cho ông Turgot phải viết trong một bài văn câu ca tụng Benjamin Franklin: “Ông ta đã ăn trộm sấm chớp của Trời cao và cây vương trượng của các bạo chúa” (He stole thunder from the heavens and the scepter from tyrants).

Giấc mơ Tự Do của xứ Hoa Kỳ đã nằm trong đầu óc của các giai tầng xã hội của nước Pháp, trong tư tưởng của ông Crèvecoeur vốn là một trong các nhân vật sáng lập ra một nơi họp mặt (salon) của thành phố Paris, trong các lời khen ngợi Hầu Tước De Lafayette sau khi đã từng phục vụ cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ và trở về đất Pháp.

Vào tháng 1 năm 1789, linh mục Sieyès cũng tung ra một số tập sách mỏng có tên là “Giai cấp thứ ba là gì?” trong đó có công bố rằng giới quý tộc là giai cấp vô dụng, không cần thiết và có thể bị loại bỏ, chỉ có giai cấp thứ ba là thành phần hữu ích cho xã hội và là bản thể của quốc gia. Chính vào lúc này, tư tưởng của Jean Jacques Rousseau trong tác phẩm “Khế Ước Xã Hội” (the Social Contract) đã trở thành tư tưởng cách mạng.

Năm 1762, J. J. Rousseau đã viết trong tác phẩm kể trên rằng “con người được sinh ra tự do nhưng đã bị xiềng xích ở khắp mọi nơi” (Man is born free and everywhere he is in chains). Theo Rousseau, con người có các quyền tự nhiên nhưng đã bị tước đoạt do xã hội có tổ chức. Các cá nhân có các nguyện vọng riêng (individual will) nhưng khi sống chung trong một cộng đồng lại có nguyện vọng chung (general will). Mục đích của chính quyền là thực hiện nguyện vọng chung này và nhờ đó nền dân chủ thực sự được thi hành. Cách giải quyết của ông Rousseau thực ra chưa thỏa đáng nhưng các vấn đề do ông nêu ra, như tính Tự Do, như nền Dân Chủ, hành động và áp chế của các nhóm đa số và thiểu số, vai trò của các đại biểu… đã kêu gọi cuộc cách mạng và các cách điều chỉnh xã hội.

Giai cấp thứ ba lúc đầu đã ủng hộ giới quý tộc để chống lại sự độc đoán của vương triều nhưng rồi hai giới quý tộc và bình dân đã ghét nhau và nghi ngờ nhau. Sự xung đột này đã làm cho các cải cách không thể thực hiện được và càng hâm nóng sức mạnh cách mạng.

Đại Hội các giai cấp đã hội họp vào ngày 5 tháng 5 năm 1789 tại Cung Điện Versailles. Giai cấp thứ ba gồm các đại biểu phần lớn là các luật sư, đã không chấp nhận lối bỏ phiếu mỗi giai cấp một lá, phản đối việc họp riêng rẽ từng giai cấp tại ba địa điểm khác nhau và đòi hỏi tất cả các đại biểu phải được tập trung vào một nơi và bỏ phiếu theo cá nhân, cách bỏ phiếu này có lợi cho giai cấp thứ ba hơn vì nếu tính theo đầu người, số đại biểu của giai cấp này bằng với số của hai giai cấp kia nhập lại. Bế tắc đã kéo dài tới 6 tuần lễ.

Ngày 13-6-1789, một số tu sĩ và quý tộc đã bỏ phòng họp của hai giai cấp kia, nhập bọn với giai cấp thứ ba, họ được hoan hô nồng nhiệt. Ngày 17- 6, nghị hội của giai cấp thứ ba tự gọi mình là Quốc Hội (National Assembly). Do áp lực của giới quý tộc, Vua Louis 16 đã đóng cửa phòng họp của giai cấp bình dân. Các đại biểu này liền kéo qua một sân banh có mái che, cùng thề và ký vào “Lời Thề tại Sân Đánh Banh” (the Oath of the Tennis Court) vào ngày 20-6, xác nhận rằng nơi nào họ hội họp thì nơi đó hiện hữu Quốc Hội và họ sẽ không giải tán cho đến khi thảo xong một bản Hiến Pháp (a constitution). Khi Vua Louis 16 gửi tới một đại diện thông báo cho các đại biểu phải giải tán, thì Hầu Tước Mirabeau đã giận dữ và la lên: “Hãy về bảo với Chủ của ngươi rằng bọn ta ở đây là do ý muốn của toàn dân và bọn ta chỉ giải tán do đầu lưỡi lê” (Go tell your master that we are here by the will of the people, and that we shall be removed only at the point of the bayonet). Hành động táo bạo này đã là một bước “cách mạng”, đòi hỏi chủ quyền phải về tay một nhóm người không có thẩm quyền pháp lý.

Vua Louis 16 như vậy đã không còn kiểm soát được Đại Hội các giai cấp, nhà Vua cũng đã không đưa ra được một chương trình cải cách nào, không thể hiện được uy quyền lãnh đạo sẵn có, không thuyết phục được giới tư sản và giới bình dân về lòng trung thành sẵn có của họ đối với nhà Vua, và đã không đứng về phe của giai cấp thứ ba để giảm bớt các đặc quyền của giới quý tộc và giới tu sĩ. Trước sự thách đố của những người bình dân, Vua Louis 16 đã bối rối, trông cậy vào sự trợ lực của Hoàng Hậu Marie Antoinette, các anh em hoàng thân cùng một số các nhà quý tộc khác. Cuối cùng, Vua Louis 16 đã quyết định giải tán Đại Hội các giai cấp. Vào cuối tháng 6, 18 ngàn binh lính được gọi tới Cung Điện Versailles. Biến cố chính trị này đã chứng tỏ nhà Vua đứng về phe các nhà quý tộc.

4- Cuộc Cách Mạng bùng nổ.

Năm 1788, nước Pháp bị mất mùa. Năm 1789 cũng là một năm lạm phát. Nền ngoại thương đã không tăng thêm vì cuộc chiến tranh giành Độc Lập tại Bắc Mỹ đã được giải quyết xong. Lương bổng của công nhân hạ xuống, nạn thất nghiệp tăng cao càng đẩy cao lên giá thực phẩm. Các xáo trộn lao động đã xẩy ra tại nhiều nơi. Vào tháng 4 năm đó, các công nhân nổi loạn đã đốt phá một nhà máy làm giấy còn tại nông thôn, các nông dân tuyên bố sẽ không đóng thuế và không nộp tô cho địa chủ. Nạn lạm phá cũng làm giảm lợi tức của các nông dân và công nhân lương thiện. Sự nghèo đói càng làm tăng thêm các kẻ trộm cướp, các kẻ khuấy động. Các khủng hoảng chính trị đã trở thành các khủng hoảng kinh tế và xã hội.

Vào tháng 7 năm 1789, giá bánh mì tăng cao hơn bao giờ hết. Các thành phố tràn ngập các kẻ ăn xin và các kẻ liều mạng. Tại thành phố Paris, người dân xao động vì tin binh lính của nhà Vua đang tập trung về Cung Điện Versailles để dự mưu dẹp bỏ Quốc Hội. Do tình hình căng thẳng, mọi người dân Paris đều muốn võ trang để tự vệ. Ông chủ ngân hàng Laborde với con trai có chân trong Quốc Hội tại Versailles, đã là một trong số những người cung cấp ngân khoản để mua võ khí cho dân chúng Paris. Các đám đông đã đi lục tìm võ khí tại các nhà kho và các tòa nhà chính phủ. Ngày 12 tháng 7 trên các đường phố Paris, các đám đông đã đi diễn hành và hô to khẩu hiệu “Bánh mì rẻ”, “hãy mở cửa nhà tù”, “Hãy võ trang cho nhân dân”…

bastille_prise

Phá ngục Bastille ngày 14/7/1789

Vào ngày 14 tháng 7, một đám rất đông dân chúng kéo tới Ngục Bastille. Đây là một lâu đài mà nhà Vua và các bộ trưởng đã tùy ý giam cầm nhiều người dân trong nhiều thập niên. Do tình hình căng thẳng, viên quản đốc nhà ngục đã cho đặt các khẩu đại bác tại các lỗ châu mai. Khi đám đông dân chúng Pháp kéo tới nhà Ngục, họ đòi hỏi viên quản đốc phải dẹp bỏ các khẩu đại bác và cung cấp cho họ một số võ khí. Lời đòi hỏi đã bị từ chối, rồi do các hiểu lầm, đám đông dân chúng Pháp đã tấn công Ngục Bastille. 98 người bị chết do súng ở bên trong nhà Ngục bắn ra. Với sự tiếp tay của một số binh lính cùng với 5 khẩu đại bác, đám đông dân chúng đã phá cửa xông vào bên trong và giết chết viên quản đốc, một số viên chức và binh lính, rồi dân chúng phẫn nộ đã chặt đầu họ, cắm vào các giáo mác để đi diễn hành qua các đường phố. Khi được báo tin việc đập phá Ngục Bastille, Vua Louis đã phải thốt lên câu: “Tại sao thế? Đây là một cuộc nổi loạn hay sao?”. Nhà Vua đã được trả lời bằng câu: “Không, thưa Ngài, đây là một cuộc Cách Mạng”.

la_fayette

Hầu Tước De Lafayette

Việc phá Ngục Bastille đã cứu vãn được Quốc Hội tại Versailles. Vua Louis 16 không biết cách phải đối phó ra sao nên đành phải chấp nhận tình trạng của Paris, công nhận ủy ban của các công dân Paris như là một chính phủ mới, cai quản thành phố đó. Tại Paris và các thành thị khác, các đội quân tư sản hay đội quân quốc gia được thành lập để giữ trật tự. Hầu Tước De Lafayette, người vốn là “vị anh hùng của hai lục địa”, được cử ra điều khiển các đội quân canh gác Paris. Để dùng làm huy hiệu, ông Lafayette đã phối hợp hai màu sắc đỏ và xanh của thành phố Paris với màu trắng của giòng họ Bourbon thành một biểu tượng ba màu của cuộc Cách Mạng và từ đó đã ra đời lá cờ tam tài.

Biến cố tại Paris đã lan ra các thành phố khác và miền quê, nơi đây các nông dân đã tự võ trang, xông vào một số nhà địa chủ và chủ trại để đốt phá các hồ sơ lưu trữ về tiền nợ. Nhiều nhà quý tộc bị giết, các người khác bỏ chạy ra nước ngoài. Chế độ thái ấp (manorial regime) đã bị giới nông dân tiêu hủy.

Ngày 14 tháng 7 năm 1789 là ngày Phá Ngục Bastille được coi là ngày khởi đầu của cuộc Cách Mạng Pháp, nhưng các hành động cách mạng còn kéo dài trong 10 năm, cho tới khi Napoléon lên nắm quyền lực vào năm 1899. Thời gian này có thể được chia một cách đơn giản thành 4 giai đoạn: (a) từ 1789 tới 1792, có nền quân chủ lập hiến trong đó giới tư sản (the bourgeoisie) áp đảo, (b) từ 1792 tới 1793, đảng Girondin đã hoạt động mạnh mẽ, (c) thời kỳ khủng bố (Reign of Terror) của giới tư sản cấp thấp và giới lao động kéo dài trong 2 năm 1793-94, và cuối cùng là (d) thời kỳ phục hồi quyền lực của giai cấp tư sản.

Cũng trong giai đoạn 10 năm kể trên, giới quý tộc muốn trở lại các đặc quyền ưu đãi về chính trị và kinh tế, giới tư sản muốn có thêm quyền lực chính trị, thêm sự hữu hiệu về cai trị và bình đẳng xã hội, giới nông dân muốn chấm dứt việc nạp tô phong kiến, giảm nhẹ thuế má, có thêm đất đai canh tác, và giới lao động thành thị mong muốn bảo đảm về công việc làm ăn cùng với thực phẩm rẻ tiền hơn.

Trong cuộc Cách Mạng Pháp, không có giai cấp nào chế ngự được chính quyền. Các chương trình cải tiến tiếp diễn nhau, xen vào là các tranh giành cá nhân, các yếu tố như ưa thích bạo động và khủng bố, mệt mỏi vì chiến tranh, lòng ái quốc và tự hào quốc gia… tất cả đã thể hiện qua các cuộc tranh đấu vật chất, nhưng có lẽ các yếu tố được đề cao trong cuộc Cách Mạng là việc làm giảm bớt quyền lực của Quốc Gia, làm tăng thêm Tự Do và Bình Đẳng cá nhân với nét đặc thù từ vai trò áp đảo của nhóm các nhà chính trị kiểm soát Paris. Chính những nhân vật này đã hướng dẫn trào lưu của cuộc Cách Mạng Pháp

II – Cuộc Cách Mạng Pháp và Robespierre

1- Các cải cách của Quốc Hội.

            Ngày 17 tháng 6 năm 1789, giai cấp thứ ba tự nhận mình là Quốc Hội (the National Assembly, l’Assemblée nationale) và sau bản “Lời thề tại Sân Đánh Banh” (le serment du Jeu de Paume), các đại biểu của giai cấp thứ ba thề rằng sẽ không giải tán cho đến khi nào viết xong một bản Hiến Pháp (constitution). Đây cũng là một hành động “cách mạng” đòi hỏi chủ quyền quốc gia vào tay một nhóm người từ trước kia không có thẩm quyền pháp lý.

            Sau biến cố phá Ngục Bastille vào ngày 14/7, Quốc Hội đầu tiên này đã làm các công việc để thỏa mãn các đòi hỏi của giới nông dân. Một nhóm nhỏ các đại biểu trong Quốc Hội đã chọn một buổi họp ban đêm, khi đó nhiều đại biểu khác đã vắng mặt: đó là đêm hôm mồng 4 tháng 8. Đêm này đánh dấu sự bắt đầu của tinh thần bình đẳng. Do sự xếp đặt trước, một số nhà quý tộc cấp tiến đã đứng lên, tuyên bố từ bỏ đặc quyền bắt dân phải dùng cối xay, lò đốt của lãnh chúa và phải nộp thuế (banalité), từ bỏ các quyền lợi tại các tòa án thái ấp, các đặc quyền phong kiến và lãnh chúa. Tất cả các hình thức nô lệ cá nhân đều bị tuyên bố bãi bỏ. Mọi ưu tiên về miễn thuế và các đặc quyền khác bị chấm dứt. Các nông dân sẽ làm chủ đất đai và sẽ trả bồi thường cho chủ đất là giới quý tộc và tư sản giàu có. Như vậy, nhờ có cách mạng, giới nông dân đã thoát khỏi các bổn phận đối với chủ đất địa phương và sau đó, họ còn không trả bồi thường cho các chủ đất khiến cho về sau, vào năm 1793, trong một giai đoạn cấp tiến của thời kỳ cách mạng, việc đòi trả bồi thường kể trên đã được nhắc lại.

            Quốc Hội đầu tiên của nước Pháp đã tuyên bố vào đêm hôm mồng 4 tháng 8 rõ ràng rằng “chế độ phong kiến bị bãi bỏ” đồng thời đặt ra các nguyên tắc dùng cho nền trật tự mới. Ngày 26 tháng 8, Quốc Hội đó lại ra “Bản Tuyên ngôn các Quyền Lợi của Con Người và Công Dân” (the Declaration of the Rights of Man and Citizen) với các điểm chính như sau:(1) Mọi người đều được sinh ra bình đẳng cùng với các quyền lợi bằng nhau.(2) Mọi công dân có quyền bầu các đại biểu để làm ra luật pháp.(3) Mọi người được tự do nói, viết, hay in ra các ý kiến miễn là người đó không lạm dụng đặc quyền này.(4) Số tiền thuế mà một người phải đóng sẽ được căn cứ vào số lượng tài sản mà người đó có.

            Bản Tuyên ngôn Nhân quyền (nguyên văn)  năm 1789 này xác nhận các nguyên tắc của một quốc gia mới, quyền công dân bình đẳng và chủ quyền tập thể của nhân dân. Điều I của Bản Tuyên Ngôn  viết rằng “Con Người được sinh ra Tự Do và Bình Đẳng về các Quyền Lợi” (Men are born and remain free and equal in rights). Các quyền lợi tự nhiên của con người là “tự do, có tài sản, được an toàn và chống lai mọi áp bức” (liberty, property, security and resistance to oppression). Cũng từ lúc này, tự do tư tưởng và tôn giáo được bảo đảm. Tự do được định nghĩa là có quyền làm mọi công việc mà không tổn hại đến các người khác và Luật Pháp phải công bằng với mọi người và là biểu hiện của nguyện vọng chung, được mọi công dân hay các đại biểu làm ra.

            Tư tưởng Bình Đẳng của thời kỳ cách mạng ban đầu như vậy đã bị thay thế bằng chiều hướng Tự Do, một thứ quyền lợi linh thiêng và không thể bị xâm phạm. Từ nay, không một ai bị bắt bớ hay trừng phạt ngoại trừ do Luật Pháp, mọi người có quyền làm các công vụ nếu hội đủ các điều kiện đòi hỏi. Chỉ có Quốc Gia có chủ quyền tối thượng và các viên chức chính phủ cùng các lực lượng quân sự hành động vì Quốc Gia. Quyền lực của chính phủ phải được phân chia cho các ban ngành và các công chức phải có hành vi tốt tại các nhiệm sở. Quốc gia vì các mục đích chung và theo luật pháp, có thể tịch thu tài sản của một số cá nhân nhưng phải hành động công bằng và hợp pháp, trong khi thuế vụ có thể được gia tăng một cách hợp lý.

            Bản Tuyên Ngôn các quyền lợi của Con Người và Công Dân được coi là một hiến chương về nền Dân Chủ, đã được in thành hàng ngàn tờ truyền đơn, tập sách mỏng và sách học, được đọc lớn tại các nơi công cộng, được đóng khung treo tường và đã trở nên tập sách “giáo lý” của cuộc Cách Mạng Pháp. Khi được dịch sang các ngôn ngữ khác, Bản Tuyên Ngôn này đã lan truyền thứ tự do tư tưởng ra khắp châu Âu, và sự đề cao cuộc Cách Mạng Pháp do Thomas Paine đề cập qua cuốn sách “Các Quyền Lợi của Con Người” (the Rights of Man) xuất bản năm 1791, đã ảnh hưởng tới các xứ nói tiếng Anh.

          Thomas Paine (1737-1809) là người thúc đẩy cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ. Vào tháng 1 năm 1776, các thuộc địa châu Mỹ còn đang chia rẽ về việc tuyên bố độc lập khỏi nước Anh. Một số người đòi hỏi Quốc Hội Lục Địa phải hành động chống lại việc tách ra khỏi mẫu quốc Anh. Hàng ngàn người khác còn do dự. Ngày 10 tháng 1 năm đó, Paine cho phổ biến một tập sách mỏng có tên là “Lương Tri” (Common Sense). Để đoàn kết lại các người còn đang bị nao núng tinh thần, Thomas Paine đã viết rằng: “Nàng Tự Do đang bị săn tìm ở khắp địa cầu. Châu Á và châu Phi đã trục xuất Nàng và nước Anh đang bảo Nàng phải ra đi. Ôi, hãy nhận vào kẻ trốn chạy đó và hãy chuẩn bị đúng lúc sự tị nạn dành cho nhân loại”. Các người thuộc địa châu Mỹ đã đọc được lời kêu gọi này và chính ông George Washington đã nói rằng lời đó đã chuyển sự nghi ngờ thành lòng quyết tâm về nền Độc Lập.

            Thomas Paine sinh ngày 29-1-1737 tại Thetford nước Anh. Mẹ ông theo đạo Anh Giáo và cha ông là một thợ may làm nịt ngực phụ nữ, theo đạo Quaker. Gia đình này khá nghèo nên năm 13 tuổi, Thomas phải làm việc phụ giúp cha rồi tới năm 19 tuổi, phục vụ trên một con tầu chiến trong cuộc chiến tranh 7 năm. Sau đó Thomas làm thợ học nghề tại London rồi người thu thuế môn bài. Trong các thời gian đổi nghề, Thomas vẫn tự học về Khoa Học và Cơ Khí rồi tới năm 1772, bị sa thải khỏi sở thuế vì đã cho phổ biến một bài viết theo đó, nên tăng lương cho nhân viên để tránh sự tham nhũng trong lúc phục vụ.

            Do gặp Benjamin Franklin tại London và được thư giới thiệu của ông Franklin, Thomas Paine đã xuống tầu qua Bắc Mỹ, tới Philadelphia làm phó biên tập cho Tạp Chí Pennsylvania. Trong thời gian này ông đã cho phổ biến nhiều bài viết và bài thơ, dưới ẩn danh và các biệt hiệu. Một trong các bài viết đã bài bác chế độ nô lệ.

            Thomas Paine đã phục vụ Quân Đội Lục Địa (the Continental Army), đã chịu đựng nhiều thiếu thốn và gian lao cùng quân đội Mỹ và nhận thấy sự chán nản gia tăng trong binh sĩ, nên vào ngày 19-12-1776, Paine đã cho phổ biến 16 tập sách mỏng có tên là “Khủng Hoảng” (the Crisis) trong đó có câu mở đầu: “Đây là thời gian thử thách tâm hồn của con người” (These are the times that try men’s souls). Ông Washington vì thế đã ra lệnh đọc các tập sách mỏng này cho mọi người chỉ huy cấp thấp của quân đội cách mạng Mỹ.

            Thomas Paine đựơc giao cho một chức vụ trong Quốc hội Lục Địa rồi do tiết lộ một số tin tức bí mật, ông bị bắt buộc từ chức vào năm 1779, sau đó lại được bổ nhiệm làm thư ký cho Quốc Hội của miền Pennsylvania. Trong thời gian này, ông đã dùng một phần tiền nhuận bút để giúp đỡ các người lính thiếu thốn. 

           Năm 1787, Paine trở về nước Anh và tại đây, ông cho xuất bản cuốn sách có tên là “Các Quyền Lợi của Con Người” (the Rights of Man) vào năm 1791 để ủng hộ cuộc Cách Mạng Pháp. Cuốn sách này đã làm khuấy động tại Anh Quốc khiến cho ông bị kết tội phản bội. Paine bỏ chạy qua nước Pháp và được bầu vào Hội Nghị Quốc Ước (the National Convention). Chính tại đây ông đã phản đối việc xét xử Vua Louis XVI rồi vì lập trường nhân đạo, ông cũng bị nhóm Jacobin bắt giam trong 10 tháng và tránh khỏi bị chặt đầu khi Robespierre bị lật đổ. Khi ra khỏi tù, Thomas Paine đã giúp việc cho ông James Monroe, khi đó làm Đại Sứ Hoa Kỳ tại Pháp rồi sau này làm Tổng Thống Hoa Kỳ. Tác phẩm “Thời Đại của Lý Trí” (the Age of Reason, 1794-96) của Thomas Paine đã chỉ trích các tổ chức tôn giáo, vì ông chỉ là một người theo thần giáo (deist), việc này đã khiến ông bị mất đi nhiều bạn bè. Thomas Paine trở về Hoa Kỳ vào năm 1802 rồi chết tại thành phố New York trong cảnh yếu đuối và túng thiếu vào ngày 8-6-1809.

            Danh từ “quyền lợi của Con Người” do Thomas Paine nêu ra đã là các ý tưởng cách mạng. Con người ở đây mang ý nghĩa trừu tượng, không chỉ rõ một quốc tịch, giòng giống hay giới tính nào. “Con Người” là danh từ chỉ nhân loại nói chung và không có ý định áp dụng cho nam giới. Tuy nhiên vào thời đại đó, người ta mới ở trình độ cho rằng người nam mới có quyền bỏ phiếu và giữ các chức vụ dân cử, hưởng các đặc quyền về giáo dục, tài sản, luật gia đình… Ít người đã tranh cãi sự bình đẳng về pháp lý giữa hai phái tính. Tuy thế, Olympe de Gouges là một nữ văn sĩ chuyên viết về kịch trường cũng đã cho xuất bản một cuốn sách có tên là “Các quyền lợi của Phụ Nữ” (the Rights of Woman) trong đó bà Gouges đã áp dụng tất cả 17 điều của “Bản Tuyên Ngôn” vào quyền lợi của phụ nữ kể cả nền giáo dục, việc ly dị trong một số trường hợp, việc kiểm soát tài sản trong hôn nhân và việc làm các công vụ. 

           Tại nước Anh cũng có cô Mary Wollstonecraft cho xuất bản cuốn sách vào năm 1792 có tên là “Bào chữa cho các quyền lợi của Phụ Nữ” (Vindication of the Rights of Woman) trong đó cho rằng người phụ nữ phải có nhiều cơ hội hơn, ít nhất là về phạm vị giáo dục. Và trong các nhà tư tưởng cấp tiến thời đó chỉ có Hầu Tước Condorcet vào năm 1790 biện hộ cho sự bình đẳng về pháp lý giữa hai phái nam và nữ với tác phẩm “Về sự chấp nhận Phụ Nữ có các Quyền Công Dân” (On the Admission of Women to the Rights of Citizenship). 

           Sau Bản Tuyên Ngôn về các Quyền Lợi của Con Người, nhóm lãnh đạo cuộc Cách Mạng Pháp đã chia rẽ. Một số nhân vật muốn nhà Vua nước Pháp có quyền phủ quyết mạnh và có hai Viện lập pháp như tại nước Anh trong khi một số nhà “ái quốc” lại muốn chỉ có một Viện lập pháp với quyền hành của nhà Vua tạm thời bị trì hoãn. Các nhà ái quốc đã nghi ngờ giới quý tộc sẽ trở thành một sức mạnh tập thể tại viện cao cấp, họ e ngại nhà Vua phối hợp với các nhà quý tộc trong việc dùng quyền phủ quyết. Vào lúc này, Vua Louis XVI cũng do dự chấp thuận các quyết định của Bản Tuyên Ngôn về các Quyền Lợi của Con Người trong khi đó, một người em của nhà Vua là bá tước Artois đã chạy ra khỏi nước, cùng một số nhà quý tộc khác đang vận động các chính phủ của châu Âu chống lại cuộc Cách Mạng. Hai nhóm “bảo thủ” và “ái quốc” vì thế đã không chịu nhượng bộ lẫn nhau.

versailles-1789

Versailles 1789

Ngày 4 tháng 10, một đám đông phụ nữ và các binh lính cách mạng đã theo quân cảnh vệ Paris (the Paris national guard) tiến từ Paris tới Cung Điện Versailles. Họ đã vây lâu đài, đòi hỏi Vua Louis XVI phải mang gia đình về Paris để họ canh chừng. Quốc Hội cũng di chuyển về Paris và chịu ảnh hưởng của các thành phần cấp tiến. Vì thế đề nghị về chế độ hai Viện với quyền phủ quyết của nhà Vua đã bị dẹp bỏ. Các người bảo thủ trong Quốc Hội từ nay trở nên thất vọng trước các vấn đề tổ chức lập hiến dù cho họ đã ký tên vào bản “Lời Thề của Sân Đánh Banh”. Họ đã trốn dần ra khỏi nước, tạo nên một sức mạnh phản cách mạng.

            Những người còn lại bắt đầu tổ chức thành các nhóm, quan trọng nhất là Câu Lạc Bộ Jacobin. Nhóm này vốn là Câu Lạc Bộ Breton, được thành lập vào năm 1789 với các hội viên là đại biểu của miền Brittany tại Quốc Hội. Lúc đầu, lệ phí của câu lạc bộ này khá cao, khiến cho các người nghèo không thể gia nhập được, nên chỉ gồm một số nhà quý tộc và nhiều nhà chuyên nghiệp trong số đó có các luật sư, một vài người cũng là nông dân. Khi được mở rộng cho nhiều người tham gia, câu lạc bộ này lại mang tên là “Hội các người Bạn của Hiến Pháp” (the Society of Friends of the Constitution) trong số đó có một số nhân vật quá khích, một số bảo thủ. Họ thường hội họp để thảo luận về các chính sách và đặt kế hoạch.

            Một người trong nhóm cách mạng kể trên là bà Rosalie Julien, có chồng và con đều là những người tham gia Cách Mạng, đã viết về những người trong câu lạc bộ nhân dịp tham dự buổi họp ngày 5-8-1792 như sau: “họ là tinh hoa của giới tư sản Paris nếu xét về loại áo mặc ngoài của họ. Cũng có từ 200 tới 300 phụ nữ hiện diện, ăn mặc như đi dự dạ hội với dáng diệu hãnh diện và lời nói mạnh mẽ”.

            Vào tháng 10 năm 1789, sau khi Vua Louis XVI và Quốc Hội đã dọn về Paris rồi, câu lạc bộ kể trên được đặt tại một tu viện trên đường St. Jacques, trước kia của các tu sĩ dòng Dominican và các tu sĩ này có tên là Jacobin. Câu lạc bộ vì thế đã có tên này và đã có Robespierre làm thủ lãnh. Do sự quá khích của những người cực đoan trong câu lạc bộ, nhiều người bảo thủ đã rút lui và một số khác bị trục xuất khỏi câu lạc bộ

2- Các thay đổi về Hiến Pháp.

            Trong 2 năm từ tháng 10 năm 1789 tới tháng 9 năm 1791, Quốc Hội Lập Hiến của nước Pháp vẫn tiếp tục vừa cai trị xứ sở, vừa soạn thảo Hiến Pháp, vừa phá hủy chế độ cũ. Các nghị viện cũ, các bộ sở cũ, cách tổ chức hành chánh cũ, các loại thuế khóa cũ và các danh xưng quý tộc cũ… tất cả đều bị những kẻ cuồng tín muốn xóa sạch. Quốc Hội Lập Hiến cũng ấn định việc chia nước Pháp ra thành 83 khu vực hành chánh chính (departments, départemants). Các viên chức mỗi miền, kể cả các quan tòa và người thu thuế, đều được bầu cử theo địa phương. Sự phân quyền này rất bất lợi một khi quốc gia tham chiến. 

           Theo Hiến Pháp năm 1791, quyền hành quốc gia thuộc về “Quốc Hội một viện” được gọi là Quốc Hội Lập Pháp (the Legislative Assembly), nhà Vua chỉ được quyền phủ quyết tạm thời, ngành hành pháp gồm có Vua và các bộ trưởng có quyền hạn rất yếu kém vì các nhà cách mạng khi đó đã không tin tưởng Vua Louis XVI. 

           Tháng 6 năm 1791, Vua Louis XVI trốn tới Varennes thuộc vùng Lorraine để dự mưu tham gia cùng các nhà quý tộc di tản và trông nhờ vào các thế lực ngoại quốc. Nhà Vua cũng để lại một bản văn phủ nhận cuộc Cách Mạng. Không may, Vua Louis XVI và gia đình đã bị bắt tại Varennes và bị đưa trở về Paris để chấp nhận một chế độ quân chủ lập hiến. 

           Do trình độ của người dân nước Pháp vào thời đại đó, với phần lớn dân chúng còn mù chữ, chưa có được các quan điểm chính trị hợp lý nên các nguyên tắc của “Bản Tuyên Ngôn” đã bị sửa đổi vì các lý do thực dụng. Người dân bình thường thời đó thuộc loại người hầu, kẻ giúp việc trong các cửa hàng nên bị coi là những người lệ thuộc vào chủ nhân. Vì lý do này, Hiến Pháp đã phân chia các công dân ra làm hai loại: loại “hoạt động” và loại “thụ động” (active and passive citizens). Cả hai thứ công dân này đều có cùng các quyền lợi dân sự nhưng chỉ có các công dân “hoạt động” mới được quyền đi bầu cử. 100 công dân hoạt động được phép chọn một cử tri (elector) rồi các cử tri lại hội họp, chọn ra đại biểu ngồi vào Quốc Hội Lập Pháp hay làm các viên chức địa phương. Các người nam trên 25 tuổi và đã đóng một loại thuế trực thu nhỏ được coi là “công dân hoạt động”. Vào khoảng năm 1790-91, đã có 50,000 người được chọn làm cử tri. 

           Đồng thời với chính sách bầu cử và ứng cử, các đường lối kinh tế cũng ưu đẵi giai cấp trung lưu hơn là các tầng lớp thấp kém khác. Để có tiền, chính quyền cách mạng đã ra lệnh tịch thu tất cả tài sản của nhà thờ và bán đi vì không môt mảnh đất nào thuộc loại này được tặng không, đồng thời chính quyền cũng phát hành một loại chứng khoán có tên là “assignat”. Người có chứng khoán assignat có thể mua đất do chính quyền bán ra. Nông dân thời đó, dù cho có tiền cũng khó mua nổi đất vì nơi bán đấu giá ở xa, và mỗi lô đất rất rộng lớn. Họ chỉ có thể mua được đất qua những kẻ trung gian.

            Các nhà lãnh đạo cách mạng cũng ưa thích nền kinh tế tự do cá thể (free economic individualism) nên các phường thợ đã bị giải tán vì bị cho là các tổ chức độc quyền của giới thương nhân hay thợ thủ công. Tư tưởng về tổ chức kinh tế thời đó tại châu Âu cũng như tại nước Anh đã bị ảnh hưởng bởi Adam Smith qua cuốn sách “Tài Sản của các Quốc Gia” (the Wealth of Nations) xuất bản năm 1776. Đây là một tác phẩm đơn độc gây ảnh hưởng lớn lao nhất về cách phát triển kinh tế. Với cách trình bày trong sáng, Adam Smith đã mô tả một nền kinh tế thị trường (a market economy) hoạt động ra sao, sự phân phối lao động trong sản xuất, sự khác nhau giữa lao động sản xuất và lao động không sản xuất, bản chất của tài sản liên hệ tới tiền bạc, sự bất lực của chính quyền trong việc điều hành các nền kinh tế…

            Adam Smith (1723-1790) có lẽ sinh vào khoảng đầu năm 1723 tại Kirkcaldy, xứ Tô Cách Lan do căn cứ vào lễ rửa tội ngày 5 tháng 6 năm đó. Năm 1737, Smith theo học Đại Học Glasgow về môn Triết Học Luân Lý (moral philosophy). Sau đó 3 năm, ông đổi về trường Balliol College tại Oxford và cư ngụ tại nơi này cho tới năm 1746. Năm 1748, Adam Smith bắt đầu diễn thuyết về kinh tế với các đề tài chẳng hạn như tài sản và sự gia tăng. Năm 1751, ông Smith được cử làm Giáo Sư Luận Lý (Professor of Logic) tại Glasgow rồi trở nên Giáo Sư Triết Học Luận Lý vào năm sau. Ông đã giảng dạy nhiều môn học như Luật Học, Tu Từ Pháp (rhetoric), Đạo Đức (ethics) và Chính Trị Kinh Tế Học (political economy). Cuốn sách đầu tiên của ông có tên là “Lý thuyết về các tình cảm luân lý” (the Theory of Moral Sentiments) xuất bản năm 1759 rồi sau đó, ông chuyên tâm hơn về Kinh Tế Học và Luật Học. 

           Năm 1763, Adam Smith trở nên phụ giáo cho Quận Công Buccleuch và cùng ông này qua châu Âu trong 2 năm. Chính vào thời gian này ông đã gặp các nhà lý thuyết về chính trị và kinh tế nổi danh như Francois Quesney, Jacques Turgot, Jean le Rond d’Alembert… Khi trở về London, Adam Smith đã bỏ ra gần 10 năm để viết cuốn “Tài Sản của các Quốc Gia”. Năm 1778, ông Smith được bổ nhiệm làm Tổng Giám Đốc Thuế vụ và cư ngụ tại Edinburg. Ông sống tại nơi này cho đến khi qua đời vào ngày 17-7-1790.

            Adam Smith đã chủ trương rằng mọi giá cả và lương bổng phải được xác định do cách dàn xếp tự do giữa các cá nhân liên hệ, tức là không có sự kiểm soát. Vào thời đó, giới thợ thuyền gồm các loại: thợ mộc, thợ nề, thợ làm giấy, thợ khóa, thợ làm kính, thợ thuộc da…, họ đã tổ chức thành các nghiệp đoàn lao động gọi là “compagnonnages” để mặc cả lương bổng và các đền bù với giới chủ nhân. Năm 1791, Quốc Hội Pháp thời cách mạng đó đã ra lệnh ngăn cấm các nghiệp đoàn lao động hay “compagnonnages” bằng bộ luật Le Chapelier và bộ luật này là một phần của bộ môn Luật Học của nước Pháp trong 3/4 thế kỷ. 

           Quốc Hội Lập Hiến của nước Pháp thời đó trong việc cải cách, đã va chạm với nhà thờ Catholic. Việc tịch thu tài sản khiến cho các tu viện, các trường học, các đất đai của Nhà Thờ đều thuộc về “quốc gia” (nation). Vào thời đó chưa có ý niệm phân cách giữa Nhà Thờ và Quốc Gia (separation of church and state) nên các nhà cách mạng Pháp thuở ban đầu đã coi Nhà Thờ là một loại công quyền (public authority), cộng tác với vương quyền (sovereign power).

            Việc tịch thu các cơ sở của Nhà Thờ đã ảnh hưởng đến sự giáo dục của hàng ngàn trẻ em và các cơ sở từ thiện cũng như nơi thờ phượng cùng việc tổ chức hàng giáo phẩm. Các giáo sĩ từ nay không được theo lệnh của Giáo Hoàng và không được phép hoạt động nếu không có phép của chính quyền mới. Mọi giáo sĩ được hưởng lương bổng của quốc gia và một chương trình tổ chức giáo phẩm được hoạch định trong bản “Hiến Pháp Dân Sự của giới Tu Sĩ” (the Civil Constitution of the Clergy) năm 1790. 

           Giáo Hoàng khi đó đã lên án cuộc Cách Mạng Pháp khiến cho Quốc Hội Pháp đã bắt các giáo sĩ phải thề trung thành với Hiến Pháp, kể cả Hiến Pháp Dân Sự của giới Tu Sĩ. Một nửa số giáo sĩ đã tuyên thệ, họ tự coi là những người ái quốc, bảo vệ các quyền lợi của Con Người và được tự do khỏi Giáo Hội La Mã, nửa kia không theo, họ đã nhận tài trợ từ các nước ngoài, theo đường lối của Giáo Hoàng và trở nên phe chống đối Cách Mạng, trong số này có cả Vua Louis XVI vì nhà Vua tin rằng nếu không sẽ bị mất đi thứ linh hồn vĩnh cửu. 

3- Ảnh hưởng của cuộc Cách Mạng Pháp tại châu Âu.

            Cuộc Cách Mạng Pháp, cũng như cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ trước kia, đã gây ra ảnh hưởng tới các xứ khác của châu Âu, đã trở nên một thứ triết học phổ biến, tuyên bố về các quyền lợi của con người bất kể chủng tộc, quốc gia và thời gian. Tại Ba Lan, những người muốn tổ chức lại đất nước, đã hoan nghênh kiểu mẫu này còn tại nước Anh, số nghị viên kiểm soát Quốc Hội cũng muốn bắt chước các đường lối thay đổi của nước Pháp gồm các nhân vật cấp tiến như Thomas Paine, Dr. Richard Price và những người không có đại diện tại Hạ Viện (the House of Commons). Qua xứ Hungari, các địa chủ tìm cách chống lại Vua Joseph II trong khi đó tại xứ Ái Nhĩ Lan, người dân cũng xao động. Đã có các cuộc đình công tại Hamburg nước Đức và nông dân Đức nổi loạn tại nhiều nơi. Tại nước Bỉ, người dân nổi dậy chống Vua nước Áo… Áo… Áo… Áo…

            Nếu có những người ủng hộ đường lối cách mạng thì cũng có nhiều người khác chống lại phong trào đó. Edmund Burke do e ngại khuynh hướng cấp tiến của nước Anh hướng về cuộc Cách Mạng Pháp, nên đã cho phổ biến một tác phẩm có tên là “Suy Nghĩ về cuộc Cách Mạng tại Pháp” (Reflections on the Revolution in France) trong đó tác giả tiên đoán rằng nước Pháp sẽ gặp cảnh vô chính phủ và nền độc tài. Ông Burke cũng phủ nhận nền triết lý chủ trương rằng căn bản chính trị của người dân phải dựa vào các hoàn cảnh kinh tế, lịch sử và đặc tính quốc gia. Ông Burke cũng chống lại sự bạo động, sự man rợ và bạo lực của cuộc Cách Mạng Pháp. Cuốn “Suy Nghĩ ” này đã được phiên dịch ra nhiều thứ tiếng và được nhiều người tìm đọc. 

           Tại nước Nga, Nữ Hoàng Catherine đã cấm đoán các tác phẩm của Voltaire, nhà văn cấp tiến người Pháp, và đưa đi đầy tại Siberia nhà văn người Nga Radischev, tác giả cuốn “Du lịch từ thành phố Petersburg tới thành phố Moscow” (Voyage from St. Petersburg to Moscow) trong đó tác giả người Nga đã tố cáo các tội ác của chế độ nông nô. Tại Thụy Điển, Vua Gustavus III nhận đứng ra lãnh đạo cuộc thánh chiến chống lại phong trào cách mạng. Những đường hướng chống đối Cách Mạng Pháp lại càng lên cao khi có những nhà quý tộc Pháp bỏ chạy ra khỏi xứ, cầm đầu là Bá Tước Artois, một người em của Vua Louis XVI. Các lời cầu cứu của nhà Vua Pháp và bà hoàng hậu Marie Antoinnette đã làm xao động các nhà quý tộc tị nạn tại khắp châu Âu.

            Châu Âu vào thời kỳ này bị chia làm hai phe: một phe có cảm tình với cuộc Cách Mạng Pháp còn phe kia trung thành với chế độ cũ, và tại bên ngoài nước Pháp, các chính phủ bảo hoàng e ngại các thành phần cách mạng và thân Pháp trong xứ. Kể từ cuộc Cải Cách Tôn Giáo Tin Lành (the Protestant Reformation), chưa bao giờ có sự chia rẽ rõ ràng đến như thế. Vào lúc này, nước Nga và nước Phổ (Prussia) đưa quân xâm lăng xứ Ba Lan và xóa đi Hiến Pháp năm 1791 của xứ sở này, tuy nhiên Nữ Hoàng Nga chỉ muốn can hiệp vào các nước láng giềng của nước Nga mà không muốn vươn tới nước Pháp tại phía tây của châu Âu. 

           Tại nước Anh, Thủ Tướng thời đó là ông William Pitt đang bận tâm về các chương trình cải cách với chính sách tập trung vào tài chính và kinh tế theo hệ thống. Nếu xẩy ra cuộc chiến tranh với nước Pháp thì các chương trình dài hạn của ông Pitt sẽ bị tác hại, vì thế ông Pitt chủ trương các vấn đề nội bộ của nước Pháp không liên quan gì tới chính phủ của nước Anh. Bận tâm về nước Pháp thời đó chỉ có Hoàng Đế Leopold II của nước Áo, người anh của hoàng hậu Marie Antoinnette.

            Các nhà cách mạng Pháp thời đó lại theo các chính sách một chiều. Họ tự ý sát nhập miền Avignon vào nước Pháp theo lời yêu cầu của một số nhà cách mạng địa phương, bất chấp chủ quyền trước kia của miền này thuộc về Giáo Hoàng. Tại miền Alsace giữa nước Pháp và nước Đức, Quốc Hội Lập Hiến tuyên bố hủy bỏ chế độ phong kiến và cách nạp tô thái ấp, sát nhập miền này vào nước Pháp mà không kể gì tới Hiệp Ước Hòa Bình Wesphalia ký năm 1648 (the Peace of Wesphalia). Trong nước Pháp, nhóm của các người cấp tiến được gọi là đảng Girondin. Những đảng viên này tuyên bố rằng cuộc Cách Mạng của nước Pháp chỉ ổn định một khi làn sóng cách mạng lan tràn ra khắp thế giới. Họ trông chờ các cuộc nổi dậy tại các xứ Hòa Lan, Áo, Thụy Sĩ, Ba Lan… và khi cao trào cách mạng thế giới nổ ra, quân đội Pháp sẽ giúp đỡ các người dân các nước với mầm mống cách mạng sẵn có, lật đổ các chính quyền đã được thiết lập, để tạo nên một liên bang các nước cộng hòa.

            Tháng 6 năm 1791, Vua Louis XVI và gia đình bị bắt tại Varennes, trước khi tới được biên thùy Luxembourg. Nhà vua và hoàng hậu từ nay rõ ràng trở nên tù nhân tại Điện Tuileries của các nhà cách mạng. Kết quả của sự bỏ trốn bất thành của nhà vua đã khiến cho mưu sự về một chế độ quân chủ lập hiến trở nên yếu kém hẳn đi. Tháng 8 năm đó, Vua Leopold II của Đế Quốc Habsburg nước Áo, đã gặp Vua nuóc Phổ tại Pillnitz thuộc miền Saxony và kết quả là Bản Tuyên Ngôn Pillnitz (the Declaration of Pillnitz) ra đời, theo đó Vua Leopold sẽ dùng võ lực để vãn hồi trật tự tại nước Pháp nếu có các xứ khác tham gia. Việc công bố này đã làm các nhà quý tộc Pháp lên tinh thần, họ đe dọa sẽ dùng các đội quân nước ngoài trở về đất Pháp để trừng trị các kẻ có tội.

            Bản Tuyên Ngôn Pillnitz đã không làm cho các nhà cách mạng Pháp lo sợ mà trái lại, càng làm lợi cho đảng Jacobin. Nhóm nhà cách mạng của thời kỳ này gồm những người như nhà triết học Condorcet, vợ chồng ông bà Roland, luật sư về nhân quyền Brissot… cùng các nhân vật ngoại quốc như Thomas Paine người Anh, Anacharsis Cloots người Đức, James Watt người Anh và là con trai của nhà phát minh ra máy hơi nước… Chính vào lúc này, Hoàng Đế Leopold II qua đời, nối ngôi là Vua Francis II, một người rất muốn phục hồi chế độ quý tộc cũ. Vua Francis II đã nối tiếp các thảo luận với nước Phổ, điều này khiến cho tinh thần chiến tranh tại nước Pháp càng thêm sôi sục. Ngày 20 tháng 4 năm 1792, Quốc Hội Pháp trong đó phe chống đối không đáng kể, đã tuyên chiến với nền quân chủ của nước Áo, tức là với Vua của xứ Hungari và Bohemia. 

4- Cuộc Cách Mạng thứ hai: 10 tháng 8 -1792.

            Giai đoạn chuẩn bị chiến tranh càng làm cho các giai cấp không có tài sản bất mãn và náo loạn. Giới nông dân thời đó cho rằng Quốc Hội đã không xúc tiến việc cải cách ruộng đất, giới công nhân thành thị ngao ngán trước cảnh vật giá gia tăng. Vàng đã từ từ ra khỏi xứ do các nhà quý tộc di tản mang theo, loại tiền giấy dùng trong nước (assignats) mất dần giá trị vì tương lai của chính phủ càng trở nên bất trắc. Nông dân đã giấu đi các nông phẩm, không chịu bán ra để lấy vào loại tiền mất giá. Vật giá càng lên cao, chiến tranh cùng với sự đe dọa trở về và trả thù của các nhà quý tộc lưu vong càng làm cho các giới tư sản, nông dân và công nhân lo sợ, họ đã sát cánh với phe nhóm cách mạng. 

           Mùa hè năm 1792, hai lực lượng quân sự Áo và Phổ đang ở ngưỡng cửa của nước Pháp. Họ cho dân chúng Pháp biết qua bản “Tuyên Ngôn Brunswick” (the Brunswick Manifesto) ngày 25-7 rằng các xâm phạm tới Vua Louis XVI và hoàng hậu sẽ mang lại hậu quả tai hại cho cư dân Pháp một khi họ tiến vào thành phố Paris. Lời đe dọa này càng làm sôi sục các người chủ trương bạo động. Tinh thần ái quốc cuồng tín đã được thúc động bởi các nhà lãnh đạo tư sản Jacobin như Danton, Marat, Robespierre, Saint Just, Couthon… 

           Mùa hè năm 1792, nhiều người dân đầu quân đổ dồn về thành phố Paris rồi các toán binh lính hăng hái lên đường ra biên giới. Tại thành phố Marseille, Rouget de Lisle đã sáng tác ra bản nhạc “La Marseillaise“, kêu gọi toàn dân đứng lên chống lại bạo quyền.

            Ngày 10 tháng 8 năm 1792, nhiều nhóm rất đông dân lao động của thành phố Paris, được sự trợ giúp của các binh lính mới tuyển từ vùng Marseilles và các vùng khác, đã tiến tới Điện Tuileries. Bạo động đã xẩy ra làm thiệt mạng 600 quân sĩ canh phòng người Thụy Sĩ và 400 thường dân. Vua Louis XVI và gia đình phải bỏ trốn vào khu nhà Quốc Hội rồi về sau bị chuyển về nhà ngục Temple cai quản do chính quyền cách mạng mới của thành phố Paris vừa được thiết lập nên. Chính quyền mới này tự gọi là Công Xã Paris (Commune).

            Thành phố Paris tràn ngập cảnh cuồng loạn, vô chính phủ và khủng bố. Một số người nổi loạn tuyên bố rằng họ sẽ chiến đấu chống kẻ ngoại xâm ở biên thùy sau khi đã thanh toán các kẻ thù ngay tại thành phố Paris. Các tu sĩ Catholic bất hợp tác và các kẻ chống lại cách mạng, tất cả vào khoảng 1,100 người, đã bị lôi ra từ các nhà giam, bị xét xử sơ qua và bị tàn sát. Biến cố này được gọi là “các cuộc tàn sát tháng 9” (the September massacres).

            Vào lúc này, nước Pháp ở trong tình trạng vô chính phủ. Sự tự do báo chí và hội họp chính trị đã cho phép ra đời nhiều tờ báo và hội đoàn chính trị. Các người quân chủ lập hiến tham gia vào Hội Feuillant (the Feuillant Club) do Hầu Tước De Lafayette đứng đầu, trong khi các người cấp tiến tích cực hoạt động trong đảng Jacobin, một tổ chức đã gây được nhiều ảnh hưởng. Về giới phụ nữ, một số tham gia vào đảng Jacobin, một số khác ôn hòa hơn, là hội viên của “Hội Bạn của Chân Lý” (the Friend of Truth). Tại các tỉnh cũng có hàng trăm hội chính trị hoạt động.

            Hầu tước De Lafayette là nhân vật lãnh đạo của Hội Feuillant, là một trong các vị anh hùng của cuộc Cách Mạng Bắc Mỹ với địa vị chỉ đứng sau ông George Washington. Ông Lafayette có tên thật là Marie Joseph Paul Yves Roch Gilbert du Motier, thuộc một trong các gia đình quý phái cổ kính của nước Pháp. Cha của ông bị chết trong trận Minden vào năm 1759 nên ông được thừa hưởng từ người cha danh hiệu Hầu Tước (marquis) và một lâu đài, và từ người mẹ một tài sản to lớn. Khi lên 16 tuổi, ông De Lafayette kết hôn với một thiếu nữ thuộc một trong các gia đình danh giá nhất của nước Pháp. 

           Năm 1776 khi được 19 tuổi và trở nên Đại Úy trong quân đội Pháp, ông De Lafayette nghe được tin loan báo rằng các thuộc địa Bắc Mỹ đã tuyên bố độc lập khỏi tầm tay người Anh, ông đã ghi lại rằng: “khi mới nghe tin tức này, lòng tôi rất rộn ràng”. Rồi bất tuân lệnh Vua của nước Pháp và của người cha vợ, ông đã bỏ tiền túi ra mua tầu biển cùng các phương tiện khác để rồi vào năm 1777, ông De Lafayette qua Bắc Mỹ, phục vụ cho xứ sở này mà không nhận lương bổng. Quốc Hội Bắc Mỹ đã phong cho ông cấp bậc Thiếu Tướng (major general) và ông George Washington đã trở nên vừa là một người bạn, vừa là một người cha đỡ đầu cho Hầu Tước De Lafayette. 

           Hầu Tước De Lafayette là một sĩ quan tài giỏi, một cố vấn khôn ngoan. Ông đã bị thương nhẹ trong trận đánh tại giòng sông Brandywine vào tháng 9 năm 1777. Ông cũng dự nhiều chiến trận tại Monmouth Court House, tại Rhode Island. Công trạng đáng kể nhất của ông là lời khuyên chính quyền Pháp ký thỏa ước đồng minh với các thuộc địa Bắc Mỹ vào năm 1778 vì nếu không có thỏa ước này, xứ Hoa Kỳ chưa chắc đã giành được Độc Lập. Năm 1779, Tướng De Lafayette trở lại Pháp rồi quay về Bắc Mỹ, dự chiến dịch Virginia và cuộc đầu hàng của Tướng Cornwallis vào năm 1781 tại Yorktown. 

           Do lòng ham chuộng Tự Do, Hầu Tước De Lafayette đã tham gia cùng với các nhà quý tộc vào cuộc Cách Mạng Pháp năm 1789, được bầu làm đại biểu của Hội Nghị các Giai Cấp và là một thành viên soạn ra “Bản Tuyên Ngôn về các Quyền Lợi của Con Người và Công Dân” (the Declaration of the Rights), dập theo khuôn mẫu là “Bản Tuyên Ngôn Độc Lập” của Hoa Kỳ.

            Sau khi Ngục Bastille bị phá vỡ và cuộc Cách Mạng Pháp khởi đầu vào ngày 14-7-1789, Hầu Tước De Lafayette được cử làm Tổng Tư Lệnh các lực lượng cảnh vệ mới, có mục đích bảo vệ Cách Mạng. Hầu Tước De Lafayette cũng là người cứu hoàng hậu Marie Antoinnette khi đám đông dân chúng xông vào Cung Điện Versailles năm 1789 và cũng là người ra lệnh bắt giữ gia đình Vua Louis XVI khi vị vua này tìm cách trốn khỏi nước Pháp. Qua nhiều biến cố chính trị xẩy ra thời đó, Hầu Tước De Lafayette đã chán nản trước các hành động thái quá của cuộc Cách Mạng rồi do là chỉ huy trưởng của các lực lượng quân sự Pháp chống lại quân đội Áo, ông đã dự mưu lật đổ nhóm Jacobin để thiết lập nên một nền quân chủ lập hiến giới hạn. Nhưng chế độ quân chủ đã bị tuyên bố chấm dứt kể từ ngày 22-9 và kết quả là Hầu Tước De Lafayette bị coi như một kẻ phản bội. Ông đã trốn khỏi bị bắt và không bị đưa lên máy chém, qua đất Bỉ rồi bị quân đội Áo tại đó cầm tù trong 5 năm, từ 1792 tới 1797, sau được thả ra nhờ Napoléon can thiệp.

            Hầu Tước De Lafayette đã không cộng tác với chính quyền Napoléon cho tới khi đế chế này bị lật đổ, thay thế bằng nền quân chủ Bourbon. Năm 1830, Hầu Tước De Lafayette đã tham dự vào cuộc Cách Mạng thứ ba, lãnh đạo Quân Đội Cảnh Vệ Quốc Gia (the Army of National Guards) để đưa lên ngai vàng Vua Louis Philippe. 

           Hầu Tước De Lafayette qua đời năm 1834, để lại danh tiếng vừa là một chính khách lỗi lạc, vừa là một vị tướng lãnh có tài, suốt đời yêu chuộng Tự Do và đã đóng góp vào 3 cuộc Cách Mạng quan trọng của Nhân Loại. 

           Khác với Hội Feuillant do ông De Lafayette lãnh đạo với đường lối quân chủ lập hiến, đảng Jacobin có khuynh hướng cực đoan, vào năm 1792 đã cho phân phát thực phẩm và tiền bạc cho dân chúng và tổ chức các cuộc tranh luận công khai, nhờ thế đã thu hút được đông đảo các đảng viên. Trên toàn đất Pháp, mạng lưới đảng Jacobin đã hoạt động với 2,000 đảng viên, phần lớn thuộc giai cấp trung lưu khá giả, có lý tưởng về công bằng và cải tiến xã hội hơn là đấu tranh giai cấp vì họ thuộc giới trí thức hiểu rõ về tư tưởng của J. J. Rousseau, về nguyện vọng chung của tập thể. 

           Khác với những người cực đoan Jacobin, còn có đảng Girondin do các nhà lãnh đạo xuất phát từ tỉnh Gironde ở gần thành phố Bordeaux. Đây là những người nông nổi, hơi lý tưởng. Họ đòi hỏi phải có cuộc chiến tranh nổi dậy tại các vùng còn bị cai trị độc tài tại các miền biên thùy của nước Pháp và xa hơn nữa, và họ trông đợi sự hưởng ứng của dân chúng địa phương tại các vùng đó khi các đoàn quân giải phóng của nước Pháp tiến đến. Họ cũng muốn áp dụng nghiêm ngặt bản Hiến Pháp Dân Sự của giới Tu Sĩ và cách trừng trị các nhà quý tộc đã bỏ chạy qua xứ khác. Không giống như đảng Jacobin, các đảng viên Girondin thuộc các tỉnh, bao gồm các người có nghề chuyên môn cấp thấp như thợ thủ công, người bán hàng hay các nông dân khá giả. Các đảng viên Girondin muốn quyền lực trung ương phải được chia sẻ bớt về các tỉnh, giảm bớt sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế của cả nước nhờ đó tài sản của Quốc Gia không tập trung vào thành phố Paris. 

           Đồng thời với các vụ tàn sát xẩy ra tại Paris, cuộc bầu cử của các nhà cách mạng đã được triệu tập nhưng số người tham dự để bỏ phiếu chỉ chiếm một phần mười. Phe nhóm Paris do đảng Jacobin dẫn đầu với Danton làm thủ lãnh, còn phe các đại biểu của các tỉnh thuộc về đảng Girondin có uy tín đang lên nhờ việc thắng trận của đội quân cách mạng tại Valmy vào ngày 20 tháng 9.

            Ngày 21 tháng 9 năm 1792, một Quốc Hội mới được thành lập, lấy tên là Hội Nghị Quốc Ước (National Convention), theo khuôn mẫu của Hội Nghị Hiến Pháp Hoa Kỳ (the American Constitutional Convention). Kể từ ngày 22-9-1792, nước Pháp trở nên một nước Cộng Hòa và chế độ quân chủ lập hiến đã chỉ tồn tại được một năm.

            Kể từ thời Cộng Hòa 1792 này, đã có nhiều thay đổi xã hội. Vào thời kỳ Cách Mạng 1789, các người thuộc giới quý tộc được gọi bằng “ông” (monsieur) hay “bà” (madame), chẳng hạn như “ông Baptiste” hay “bà Catherine”, còn dân thường chỉ được gọi bằng tên trơn. Tới thời kỳ Cách Mạng, người ta thường đề cập tới khẩu hiệu “Tự Do, Bình Đẳng và Huynh Đệ” (liberty, equality and fraternity). Bình đẳng có nghĩa là dẹp bỏ sự cách biệt giữa các giai cấp trong xã hội, mọi người được coi như ngang hàng với nhau và vì thế, ông Baptiste được gọi là “công dân Baptiste” (citoyen Baptiste) cũng như bà Catherine được gọi là “nữ công dân Catherine” (citoyenne Catherine). Để làm tăng thêm tình huynh đệ (fraternity), mọi người dân được khuyến khích dùng từ ” tu = anh, chị” thay vì từ “vous = ông, bà”. Tại các thành phố và thị xã, đường xá và đại lộ với tên các vua chúa được thay bằng tên của các vị anh hùng, của các lý tưởng như Tự Do, Độc Lập… Nhiều người có tên Louis đã đổi sang dùng các tên khác. 

           Ngày 22 tháng 9 năm 1792 là ngày tuyên bố mở đầu nước Cộng Hòa Pháp nên Hội nghị Quốc Ước chấp nhận năm thứ nhất của nước Cộng Hòa bắt đầu từ 1792 tới 1793, năm thứ hai Cộng Hòa từ 1793 tới 1794… Một năm được chia ra làm 12 tháng, mỗi tháng có 3 kỳ, mỗi kỳ 10 ngày, ngày cuối cùng của mỗi kỳ là ngày nghỉ. Như vậy vào cuối năm còn lại 5 ngày hay 6 ngày nếu là năm nhuận, những ngày dư này là các ngày nghỉ lễ và được gọi là “sans-culottides” (ngày của hạng người bình dân). Các ngày và tháng được mang các tên mới. Các ngày được gọi bằng tên của các loại trái cây, rau cỏ, hoa tươi, gia vị, cá, chim và các con vật, chẳng hạn như ngày hoa Tulip, ngày cá chép, ngày con gà, ngày bò cái… Các tháng được kể như sau: 

Mùa Thu: Vendemaire = tháng hái nho, Brumaire = tháng sương mù, Frimaire = tháng sương giá,

Mùa Đông: Nivôse = tháng tuyết, Pluviôse = tháng mưa, Ventôse = tháng gió,

Mùa Xuân: Germinal = tháng mầm lá, Floreal = tháng hoa, Prairial = tháng cánh đồng,

Mùa Hạ: Messidor = tháng gặt hái, Thermidor = tháng nhiệt, Fructidor = tháng trái cây.

Loại lịch cách mạng này đã được dùng cho tới khi Hoàng Đế Napoléon ra lệnh hủy bỏ vào năm 1806.

            Tại Hội Nghị Quốc Ước, các đảng viên Girondin là các nhà xã hội bảo thủ ngồi tại bên phải của phòng họp, họ nhận được sự ủng hộ của các đại biểu độc lập ngồi tại phần giữa và trên nền của căn phòng, còn ngồi tại bên trái và phía cao (the Mountain) là các đảng viên Jacobin.

            Các thủ lãnh của đảng Jacobin phần lớn sinh trưởng tại các tỉnh lẻ nhưng lại là các đại biểu của thành phố Paris, họ được sự ủng hộ của các phần tử cấp tiến và bình dân. Những người này mặc loại quần dài của giai cấp thợ thuyền, không có loại dây thung buộc hai ống quần nên được gọi là những người “sans-culotte”, tức là không thuộc giai cấp trung lưu hay thượng lưu. Giai cấp thợ thuyền thời đó gồm loại chủ tiệm và các người giúp việc, các thợ thủ công có tay nghề, các chủ nhân nhà máy hay xưởng máy nhỏ và các công nhân của thời kỳ tiền kỹ nghệ. Trong thời gian hai năm, họ đòi hỏi sự bình đẳng, và các hoạt động cùng khuynh hướng quân sự của họ đã thúc đẩy trào lưu cách mạng tiến về phía trước.            Đảng Jacobin tuy được sự ủng hộ của giới phụ nữ bình dân Paris là những người thường xuyên xao động trước giá cả gia tăng và sự thiếu hụt thực phẩm, nhưng các nhà lãnh đạo đảng như Robespierre lại không hoan nghênh các hoạt động chính trị của phụ nữ, họ nghi ngờ sự đại diện của phụ nữ tại Quốc Hội, một phần có lẽ do họ đã theo quan niệm của J. J. Rousseau chủ trương rằng người phụ nữ phải phục tùng nam giới. 

           Các đảng viên Girondin chủ trương nên tăng cường các chính quyền địa phương hay một loại phân quyền liên bang (federal decentralization) trong khi đó họ lại cho rằng nên thúc đẩy chiến tranh sang các nước ngoài, một việc làm đòi hỏi loại kiểm soát từ trung ương. Lúc đầu, việc chống các lực lượng ngoại xâm của quân dân Paris đã có kết quả. Tướng Dumouriez đã chỉ huy binh lính cách mạng, đánh thắng quân Phổ tại Valmy vào tháng 9, đè bẹp đội quân Áo tại Jemappes nước Bỉ vào tháng 11. Binh lính Pháp cũng chiếm đóng miền Savoy thuộc quyền của Vua xứ Sardinia, lúc bấy giờ tham gia với Vua nước Áo, họ cũng kiểm soát miền Mainz và các thành phố bên bờ phía trái của giòng sông Rhine, nước Đức.            Việc chiến thắng của binh lính cách mạng Pháp đã khiến cho Hội Nghị Quốc Ước ban ra một đạo luật hứa hẹn giúp đỡ “mọi dân tộc muốn thu hồi Tự Do”. Các vị tướng chỉ huy Pháp cũng được lệnh giải tán chính quyền của các vùng chiếm đóng, tịch thu tài sản của chính phủ cũ và nhà thờ, hủy bỏ việc nạp tô, các loại thuế và các quyền săn bắn đồng thời thiết lập nên các nền hành chính quản trị mới.

louis16guillotine.jpg

           Hội Nghị Quốc Ước cũng mang Vua Louis XVI ra xét xử vào tháng 12 năm 1792 về tội âm mưu với các nước ngoài để xâm lăng nước Pháp. Ngày 15-1-1793, các đại biểu của Hội Nghị Quốc Ước đều biểu quyết Vua Louis XVI có tội, rồi vào ngày hôm sau, trong số 721 đại biểu, 361 người đã bỏ phiếu phải xử tử ngay nhà Vua. Vua Louis XVI (còn có tên thường dân là Louis Capet), đã chết trên máy chém guillotine vào ngày 21-1-1793 tại Quảng Trường La Concorde. 

           Việc hành quyết Vua Louis XVI đã gây chấn động khắp châu Âu cùng lúc với việc chiến thắng của binh lính Pháp tại đất Bỉ. Nước Anh và Hòa Lan bắt đầu phản ứng bằng cách liên lạc với hai nước Phổ và Áo. Thủ Tướng Anh William Pitt tuyên bố rằng nước Anh không thể làm ngơ trước việc quân đội Pháp chiếm đóng nước Bỉ. Nước Pháp liền tuyên chiến với các nước của châu Âu vào ngày 1-2-1793 vì vào thời đó, hai nước Anh và Hòa Lan không có các lực lượng quân sự trên bộ còn hai nước Phổ và Áo lại đố kỵ nhau và đang bận tâm về xứ Ba Lan, và không nước nào muốn đưa ra khối quân lực để đối đầu với nước Pháp. 

5- Thời kỳ khủng bố 1793-94.

Vào tháng 4 năm 1793, ông Dumouriez là vị tướng Pháp thắng trận tại đất Bỉ, đã đào thoát qua nước Áo. Các lực lượng ngoại quốc đang đẩy lui binh lính Pháp ra khỏi đất Bỉ và đang đe dọa xâm lăng nước Pháp. Các kẻ phản cách mạng mừng rỡ trong khi các nhà cách mạng Pháp lại la hoảng là “chúng ta đang bị phản bội”. Vật giá gia tăng, thực phẩm khan hiếm, dân chúng nhốn nháo. Giới tư sản cấp thấp, giới công nhân và nông dân đòi hỏi phải kiểm soát giá cả, phân phối thực phẩm, trừng trị các kẻ đầu cơ tích trữ. Họ tố cáo giới tư sản đã trục lợi lúc tình hình bất ổn. Trong khi các đảng viên Girondin còn đang do dự thì các đảng viên Jacobin đã hợp tác với lớp người bình dân (the sans-culottes), một phần để giành lấy sự ủng hộ, một phần để tranh chấp với đảng Girondin.

            Ngày 31 tháng 5 năm 1793, Công Xã Paris dưới áp lực của giới bình dân, đã tập hợp được một nhóm rất đông các người biểu tình, kéo tới và tràn vào Hội Nghị Quốc Ước, vây bắt các đảng viên Girondin. Những người này bỏ trốn về các tỉnh lẻ, kể cả ông Condorcet và nhà triết học này trong thời kỳ lẩn trốn, đã viết nên tác phẩm “Tiến Bộ của Tâm Hồn Nhân Loại” (the Progress of the Human Mind). Đảng Jacobin từ nay khống chế được Hội Nghị Quốc Ước nhưng các nghị viên này đang bị mang tiếng là những kẻ giết Vua và phá hủy xã hội. Vào lúc này, đảng Jacobin chưa nắm được thực quyền. Tại miền Vendée ở phía tây, các nông dân nổi loạn chống lại việc bắt lính, một phần cũng do sự xúi dục của giới tu sĩ bất mãn, do các kẻ theo người Anh và do những người theo phe bảo hoàng của Bá Tước Artois. Những kẻ chống lại Công Xã Paris còn được sự tiếp tay của các đảng viên Girondin từ Paris chạy về, họ đã hoạt động tại các thành phố như Marseilles, Lyons, Bordeaux và một số tỉnh khác. 

         Ngoài những kẻ phản cách mạng, tại thành phố Paris còn có các kẻ khuấy động, các kẻ chủ trương quân phiệt được gọi là “enragés”, các nhà tổ chức chính trị với quan điểm cho rằng phương pháp nghị viện không hữu hiệu. Phía phụ nữ có tổ chức “Phụ Nữ Cộng Hòa Cách Mạng” (the Revolutionary Republican Women) luôn luôn biểu tình vì các vụ tăng giá hàng và sự thiếu hụt thực phẩm. Hàng ngàn các “xã hội bình dân” (popular societies), các câu lạc bộ chính trị… đã lập ra các đội quân cách mạng, các toán quân bán quân sự… họ đi tìm kiếm thực phẩm tích trữ, các kẻ tình nghi, và họ cổ võ phong trào cách mạng.

            Trước tình hình trong nước rối ren như vậy, Hội nghị Quốc Ước đã không có một chương trình hành động nào rõ rệt nên trong vòng một năm, Maximilien Robespierre là nhân vật Jacobin đã điều hành các chính sách. Sau này, nhiều người đã tố cáo Robespierre là kẻ độc tài, khát máu, mị dân… nhưng cũng có những người khác lại coi ông là một người lý tưởng, nhìn xa, một nhà ái quốc với mục đích dân chủ. Dù cho sự phê phán có sai biệt, song ai cũng công nhận ông ta là một người lương thiện, thanh liêm và có nhiệt tâm cách mạng, với từ tâm vào các năm đầu của cuộc Cách Mạng, trái hẳn với sự tàn ác và không nhân nhượng trong các năm về sau. Robespierre cũng là một người tin tưởng vào sự quan trọng của các đức tính (virtues) hay tinh thần công ích, không vụ lợi, vì ông cho rằng một nước Cộng Hòa phải gồm có các công dân tốt và lương thiện. 

           Maximilien Robespierre (1758-94) sinh ngày 6 tháng 5 năm 1758 tại Arras, học Luật khoa tại Arras và Paris rồi hành nghề Luật Sư tại thành phố quê hương, nơi này ông nổi danh về khả năng trí thức và tính lương thiện. Ông đã từng cố gắng đòi hỏi hủy bỏ án tử hình và từ chối làm quan tòa tuyên cáo loại án đó. Robespierre là một người hâm mộ J. J. Rousseau và khi cuộc Cách Mạng Pháp xẩy ra, ông cho rằng đó là cơ hội để thiết lập nên một xã hội lý tưởng theo quan niệm của vị triết gia kể trên. Năm 1789, Robespierre được bầu làm đại biểu tại Hội Nghị các Giai Cấp rồi trở nên người lãnh đạo nhóm Jacobin. Robespierre cũng góp công vào việc tổ chức ra Công Xã Paris và với tài hùng biện, ông đã đòi hỏi phải xét xử Vua Louis XVI và hoàng hậu. Ông đã tuyên bố rằng “Nhà Vua phải chết để Đất Nước có thể sống” (Louis XVI must die that country may live).  

          Chương trình cải cách của Robespierre thời đó là xóa bỏ tình trạng vô chính phủ, dẹp tan các xung đột trong xã hội, chống trả các công cuộc phản cách mạng trong nước và đánh thắng cuộc chiến tranh với các nước ngoài bằng cách động viên toàn dân và tất cả tài nguyên, rồi về sau mới thiết lập nên một định chế dân chủ, khởi đầu bằng việc lập hiến cho các giai cấp thấp kém.

           Hội Nghị Quốc Ước thời đó đã cho phép lập ra Ủy Ban An Toàn Công Cộng (the Committee of Public Safety) điều hành chính quyền. Ủy Ban này gồm có 12 người bầu lên mỗi tháng trong đó Robespierre là một nhân vật có nhiều ảnh hưởng, ngoài ra còn có George Danton, Jean Marat, St. Just, Couthon là người bị liệt một phần, Lazaire Carnot là một sĩ quan cách mạng Pháp…  

          Trong tình trang khẩn trương đó, Ủy Ban An Toàn Công Cộng đã hoạt động như một nội các chiến tranh, một loại độc tài tập thể. Ủy Ban này đã cho phổ biến bản “Thông Báo Luật Pháp” (Bulletin des lois) qua đó đòi hỏi mọi người dân phải tuân theo các điều lệ. Ủy Ban cũng tập trung uyền hành vào trung ương đồng thời kêu gọi mọi người dân đầu quân qua bản văn kêu gọi “levée en masse” (động viên tập thể). Các nhà khoa học tài giỏi của nước Pháp thời đó cũng được mời đón giúp sức vào các công cuộc khảo cứu hữu ích, gồm có các nhà bác học Lagrange, Lavoisier, Lamark… Chính quyền thời đó cũng kiểm soát số lượng vàng xuất cảng, chặn đứng việc đầu cơ tích trữ, thực phẩm được phân phối qua Ủy Ban Đời Sống (Subsistence Commission) nhờ đó đồng tiền “assignat” không còn bị mất giá. 

           Ủy Ban An Toàn Công Cộng cũng tin tưởng vào nền kinh tế thị trường tự do (free market economy), khuyến khích các nông dân làm ăn cá thể nhưng vào thời kỳ đó, chính quyền Pháp còn thiếu nhiều kỹ thuật và phương pháp quản trị kinh tế. Tháng 6 năm 1793, Ủy Ban kể trên đã đề nghị một bản Hiến Pháp Cộng Hòa theo đó có cuộc phổ thông đầu phiếu của nam giới, nhưng rồi bản Hiến Pháp này đã bị tạm hoãn vô hạn định. Các tập sách mỏng về nông nghiệp được Ủy Ban cho phổ biến để dạy cho nông dân cách trồng lúa hữu hiệu. Việc mở trường Quân Sự và chương trình giáo dục cưỡng bách là những chương trình hành động của Ủy Ban. Tới cuối năm 1793, Hội Nghị Quốc Ước lập ra một kế hoạch xóa bỏ Thiên Chúa Giáo (dechristianization) thay vào đó bằng việc tôn thờ một Đấng Thiêng Liêng (the Supreme Being), đây là một thứ tôn giáo tự nhiên thờ thần (a deistic natural religion), chấp nhận sự hiện hữu của Thượng Đế và sự vĩnh cửu của Linh Hồn.

            Để dẹp tan các kẻ chống lại Cách Mạng, Hội Nghị Quốc Ước và Ủy Ban An Toàn Công Cộng đã cho lập ra một cơ quan cảnh sát chính trị tối cao, gọi là Ủy Ban An Ninh Tổng Quát (the committee of General Security) có mục đích bảo vệ Nước Cộng Hòa, chống lại các kẻ nội thù. Ngày 17-9-1793, một đạo luật được thông qua cho phép nhóm Jacobin hay Ủy Ban An Ninh có quyền bắt giam bất cứ người nào bị nghi ngờ chống lại Cách Mạng.

guillotine.jpg

Vào mùa thu năm 1793, các kẻ cầm đầu nhóm quân phiệt “enragés” (điên dại) bị bắt và các tổ chức cách mạng của phụ nữ bắt đầu bị cấm đoán. Các nhân vật cực đoan như Jacques Hébert, vừa là một nhà báo, vừa là một thành viên của Công Xã Paris, đã bị Robespierre gọi là các kẻ “cực cách mạng” (ultra revolutionaries), một số người của bè nhóm này đã bị đưa lên máy chém. Tháng 3 năm 1794, Công Xã Paris bị giải tán rồi Robespierre chỉ định nhiều người trong nhóm của ông ta nắm giữ các cơ quan công quyền chủ yếu

dantongeorge.jpg

       Robespierre cũng khai trừ một số người thuộc cánh tả như George Danton và các kẻ phục tùng, kết tội họ là bất lương về tài chính và tiếp xúc với phe phản cách mạng. George Danton (1759-94) là một trong các nhà lãnh đạo của cuộc Cách Mạng Pháp và cũng là người đưa hàng ngàn kẻ chống đối lên máy chém.” (1759-94) là một trong các nhà lãnh đạo của cuộc Cách Mạng Pháp và cũng là người đưa hàng ngàn kẻ chống đối lên máy chém. Danton sinh ngày 26-10-1759 tại Arais-sur-Aube, nước Pháp, là con của một luật sư. Từ thuở nhỏ, Danton đã có khả năng về hùng biện. Năm 1780, Daton lên Paris học Luật Khoa rồi tới năm 1787, lãnh chức Luật Sư tại Hội Đồng Hoàng Gia (the Royal Council). Năm 1790, Danton là sáng lập viên của Câu Lạc Bộ Cordeliers, một tổ chức của các nhà cách mạng quá khích. Năm sau, để tránh bị vây bắt, Danton phải chạy qua nước Anh rồi trở về Pháp và vào ngày 10-8-1792, ông đã lãnh đạo cuộc tấn công vào Điện Tuleries. Sau đó, Danton trở nên Bộ Trưởng Tư Pháp của chính phủ lâm thời. Do có tài hùng biện, Danton đã hô hào Hội Nghị Quốc Ước chống lại việc xâm lăng của quân Phổ và ông cũng là một trong các người bỏ phiếu kết án Vua Louis XVI và hoàng hậu.

            Trong thời kỳ khủng bố, Danton đã cùng với Jean Paul Marat và Robespierre điều hành Ủy Ban An Toàn Công Cộng. Chủ đích của Danton là sau khi chính quyền cách mạng đã ổn định, các cuộc ngoại xâm đã được đẩy lui và các nhóm bảo hoàng đã bị dẹp tan, cần phải phục hồi lại sự hòa dịu trong các chính sách cách mạng. Nhưng Danton đã bị Robespierre tố cáo là muốn phục hồi vương quyền và tham nhũng, nên bị bắt và chết trên máy chém vào ngày 5-4-1794. Dù sao George Danton vẫn được nhiều người coi là một trong các lãnh tụ có khả năng nhất và không vị kỷ.           

Trong thời kỳ Khủng Bố của nước Pháp từ năm 1793 tới năm 1794, vào khoảng 40,000 người đã bị giết, một số lớn khác bị cầm tù. Riêng tại thành phố Paris kể từ tháng 9-1793 tới tháng 6-1794, vào khoảng 2,500 người đã bị đưa lên máy chém guillotine. Ngày này qua ngày khác, lưỡi máy chém này không lúc nào ngừng rơi! Trong số các nạn nhân của các cuộc thanh trừng, 8 % thuộc giai cấp quý tộc, 14 % là giới tư sản, nhất là những kẻ nổi loạn tại miền Nam của nước Pháp, giới tu sĩ có 6 % nạn nhân trong khi hơn 70 % người bị giết là các nông dân và công nhân. Nước Cộng Hòa Pháp được đặt căn bản trên tinh thần của “Bản Tuyên Ngôn các Quyền Lợi của Con Người” nhưng các tàn sát trong thời kỳ khủng bố này lại rất vô nhân đạo và tại một vài nơi, đã cực kỳ tàn ác chẳng hạn tại miền Nantes, 2,000 người chống đối cách mạng đã bị đưa lên các con phà và nhận chìm ngoài khơi!

            Chiến thắng quân sự của nước Pháp, sự chán nản của dân chúng đối với việc phân phối thực phẩm của thời kỳ khủng bố, đối với cảnh tàn sát của nhóm người cực đoan do Robespierre lãnh đạo, nhất là sau cái chết của George Danton, các thành viên của Hội Nghị Quốc Ước bắt đầu lo ngại cho số phận của họ trước cảnh độc tài khát máu của Robespierre. Họ tự hỏi: “ngay cả một lãnh tụ của đảng Jacobin còn bị đưa lên máy chém thì ai trong chúng ta sẽ được an toàn?”. Nhiều người đã nghi ngờ Robespierre muốn trở nên một kẻ độc tài.

            Ngày 27 tháng 7, Robespierre nói trước Hội nghị Quốc Ước, ông ta đã chỉ trích mọi công việc còn dang dở trong thời gian qua và đưa ra một danh sách ghi tên các kẻ phản bội đang muốn phá hủy Nền Cộng Hòa, và Robespierre cũng ám chỉ rằng một số kẻ này đang nằm ngay trong Hội Nghị Quốc Ước. Chính vào lúc này, một đại biểu ngồi phía sau trong phòng hội đã hô lớn: “Tôi đòi phải bắt giữ Robespierre”. Cả phòng hội liền vang lên câu nói: “Đả đảo kẻ bạo quyền”. Mặt Robespierre tái đi. Ông ta cố nói lớn nhưng giọng nói đã bị tiếng hô hoán của hội trường lấn át. Một đại biểu đã la lên: “Máu của Danton đã làm mày nghẹt giọng”.

            Ngay sau đó, Hội nghị Quốc Ước đã đồng thanh bỏ phiếu bắt giữ Robespierre. Ngày 28 tháng 7 năm 1794 (tức là ngày 8 tháng Thermidor), Robespierre và đồng bọn 22 người đã bị chặt đầu trên máy chém guillotine. 

           Cuộc Cách Mạng Pháp 1789 đã làm đổ máu hàng chục ngàn người dân vô tội, đã giết oan hàng trăm kẻ anh hùng, những người đã hy sinh mạng sống vì các lý tưởng Bình Đẳng, Độc Lập, Tự Do… Họ đã tranh đấu chống lại cảnh áp bức, tranh đấu vì sự Công Bằng Xã Hội. Trong số các nhân vật cách mạng Pháp, có nhiều phụ nữ mà đại biểu là bà Rolland (1754-93), vợ của một nhà chính trị cách mạng và bà cũng là một thành viên của đảng Girondin.

            Ngày 8 tháng 11 năm 1793, bà Rolland đã bị bè nhóm của Robespierre đưa ra pháp trường. Trước khi bị chặt đầu, bà Rolland đã cúi chào bức tượng “TỰ DO” bằng đất nung (clay statue of Liberty) đặt gần máy chém và than: “Ôi, TỰ DO! Người ta đã nhân danh Mi để gây ra biết bao TỘI ÁC! ” (Liberty, what crimes are committed in thy name)./. 

03/02/2009

Nguồn bài đăng

Chia sẻ:

Thích bài này:

Thích

Đang tải…

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *