CaoDai-Online

 

A. Tại sao chúng ta thờ Đức Phật Mẫu ?

Theo vũ trụ quan của Đạo Cao Đài, thuở đầu tiên của càn khôn vũ trụ, trong khoảng không gian bao la, chỉ có một chất khí hỗn độn gọi là Khí Hư Vô (Hư Vô chi Khí), chuyển động quay cuồng, phát nổ ra một tiếng lớn (big bang), sanh ra một Đấng gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế, trọn lành trọn tốt, ngôi của Ngài là Thái cực.

Đấng Thượng Đế phân Thái cực ra Lưỡng nghi : Âm quang và Dương quang. Đấng Thượng Đế chưởng quản Dương quang, còn Âm quang chưa có người chưởng quản. Thượng Đế tự hóa thân ra Đức Phật Mẫu để chưởng quản khí Âm quang. Từ đây mới bắt đầu có Ngôi Âm.

Đức Phật Mẫu cho hai Khí Âm quang và Dương quang phối hợp với nhau để tạo ra càn khôn vũ trụ và vạn vật. Trong vạn vật có chúng sanh. Trong chúng sanh, loài người khôn ngoan và linh thiêng liêng hơn hết vì Thượng Đế ban cho mỗi người một điểm linh hồn.

Nói riêng về con người, mỗi người chúng ta có Tam thể xác thân :

Xác thân phàm : do cha mẹ phàm trần sanh ra và được nuôi dưỡng bằng thực phẩm vật chất phàm trần.

Xác thân thiêng liêng, thường gọi là chơn thần, do Đức Phật Mẫu dùng hai nguyên khí nơi Diêu Trì Cung tạo ra, được Đức Phật Mẫu nuôi dưỡng bằng khí Sanh quang do Thái cực phát ra.

Linh hồn hay chơn linh là một điểm linh quang của Thượng Đế lấy ra từ khối Đại linh quang của Ngài để ban cho mỗi người, tạo ra sự sống và sự suy nghĩ hiểu biết.

Do đó, Thượng Đế là Cha của chơn linh, Đức Phật Mẫu là Mẹ của chơn thần, còn thể xác thì có cha mẹ phàm trần. Chúng ta phải thờ, trước hết là cha mẹ thể xác, kế đó là phải thờ hai Đấng Cha Mẹ thiêng liêng : Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu.

Thờ Đức Chí Tôn, thờ Đức Phật Mẫu, thờ cha mẹ phàm trần là để chúng ta luôn luôn nhớ tưởng đến công ơn sanh thành và dưỡng dục của các Đấng ấy.

 

B. Hai kiểu thờ tại Điện Thờ Phật Mẫu

Tại địa phương, ngôi nhà thờ Đức Chí Tôn được gọi là Thánh Thất, ngôi nhà thờ Đức Phật Mẫu gọi là Điện Thờ Phật Mẫu (Điện Thờ Phật Mẫu). Tại Thánh địa Tây Ninh, Hội Thánh chưa xây cất Đền Thờ Phật Mẫu Trung Ương, nên tạm thời thờ Đức Phật Mẫu tại Báo Ân Từ.

1. Kiểu thứ nhứt (thờ giống như ở Báo Ân Từ) :

Điện Thờ Phật Mẫu thường cất có 3 gian :

– Gian chính giữa thờ : Diêu Trì Kim Mẫu (Đức Phật Mẫu), Cửu Vị Tiên Nương và Bạch Vân Động Chư Thánh.

– Gian bên tả thờ : Chư Chơn Linh Nam Phái.

– Gian bên hữu thờ : Chư Chơn Linh Nữ Phái.

Các long vị đều được viết bằng chữ Nho đại tự.

Kiểu thứ nhứt (thờ giống như ở Báo Ân Từ)

2. Kiểu thứ nhì (thờ giống Điện Thờ Phật Mẫu Trí Giác Cung) :

Điện Thờ Phật Mẫu nơi Trí Giác Cung (Trường Qui Thiện cũ) không thờ Chư Chơn Linh Nam Phái và Nữ Phái, chỉ thờ Đức Phật Mẫu, Cửu vị Nữ Phật, Bạch Vân Động Chư Thánh.

– Gian giữa thờ : Diêu Trì Kim Mẫu (Đức Phật Mẫu)

– Gian hữu thờ : Cửu Vị Nữ Phật (Cửu Vị Tiên Nương).

– Gian tả thờ : Bạch Vân Động Chư Thánh.

Kiểu thứ nhì (thờ giống Điện Thờ Phật Mẫu Trí Giác Cung)

Khi nào Hội Thánh xây dựng được Đền Thờ Phật Mẫu Trung Ương thì mới có thể thống nhứt nghi lễ thờ Đức Phật Mẫu.

 

C. Nghi tiết cúng đàn tại Điện Thờ Phật Mẫu

Đại Đàn cúng Đức Chí Tôn tại Thánh Thất thường cúng lúc 12 giờ trưa. Do đó, đàn cúng Đức Phật Mẫu tại Điện Thờ Phật Mẫu địa phương phải dời lại cúng lúc 6 giờ chiều, tức là 18 giờ, nhằm giờ Dậu.

Cúng Đức Phật Mẫu tại Điện Thờ Phật Mẫu chỉ có một nghi tiết, không phân ra Đại đàn hay Tiểu đàn, nhưng vì Lễ sĩ đều điện lễ khi Dâng hương hay Dâng Tam bửu, từ Ngoại nghi đến Nội nghi, nên nghi tiết cúng đàn Đức Phật Mẫu có phần giống Đại đàn cúng Đức Chí Tôn tại Thánh Thất.

Nhưng khi cúng đàn Đức Phật Mẫu, về Nhạc Tấu Quân Thiên (NTQT), phân ra hai trường hợp : đờn 3 bài và đờn 5 bài.

* NTQT đờn 5 bài : Vía Đức Phật Mẫu ngày 15 tháng 8, ba ngày rằm lớn của ba nguơn : 15 tháng giêng, 15 tháng 7 và 15 tháng 10.

* NTQT đờn 3 bài : các ngày sóc vọng thường lệ.

Trường hợp NTQT đờn đủ 5 bài chỉ có nơi Báo Ân Từ, còn các Điện Thờ Phật Mẫu địa phương vì Ban nhạc thiếu nhạc sĩ nên chỉ đờn 3 bài.

Khi cúng đàn Đức Phật Mẫu, tất cả Chức sắc đều không mặc áo mão Chức sắc, chỉ mặc áo dài chẹt trắng y như các Đạo hữu mà thôi, bởi vì tất cả đều là con của Đức Phật Mẫu, không phân biệt phẩm tước.

Trong đàn cúng Đức Phật Mẫu, mọi người đều mặc đạo phục như nhau, thể hiện một sự bình đẳng rõ rệt giữa con cái của Phật Mẫu. Nơi đây chỉ có tình MẸ CON và tình anh chị em với nhau mà thôi.

Đặc biệt chỉ có 6 Lễ sĩ mặc áo rộng màu vàng, đội mão trắng, mang giày bố trắng, phân ra 3 cặp : 1 cặp lễ xướng đứng hai bên Ngoại nghi, 1 cặp đăng và 1 cặp đài.

Gần tới 6 giờ chiều, các ban bộ có phận sự trong đàn cúng đi vào trước để chuẩn bị các việc, còn các nam nữ tín đồ thì sắp hàng đứng phía trước Điện Thờ.

Đúng 6 giờ chiều, nơi lầu chuông, vị chấp sự khởi kệ chuông nhứt : đầu tiên dộng 3 tiếng chuông, kệ 3 câu, dứt mỗi câu kệ thì dộng 1 tiếng chuông.

Bài kệ chuông nhứt giống y như kệ chuông cúng Tứ Thời : “ Văn chung khấu hướng . . . . . . “

Xong kệ chuông nhứt, Lễ sĩ khởi xướng :

1. Tịnh túc thị lập. (Đều nghiêm trang đứng hầu)

2. Chấp sự giả các tư kỳ sự. (Người được phân công phần việc nào thì đến giữ phần việc ấy)

Kế tiếp kệ chuông nhì.

Người chấp sự trên lầu chuông dộng 3 tiếng trước khi kệ, rồi kệ xong một câu thì dộng 1 tiếng chuông.

Bài kệ chuông nhì : “ Nhứt vi u ám . . . . . . “

Cặp Lễ Xướng tiếp :

3. Cung thành thứ tự nam nữ nhập đàn.

Tất cả các tín đồ nam nữ đi vào đàn cúng, tay bắt ấn Tý, đứng day ngang. Người hầu chuông nơi nội nghi gõ 1 tiếng chuông, mọi người xá đàn 1 xá, bước vào chánh điện, quay người hướng lên bàn thờ, đứng im lặng nghiêm trang.

4. Nhạc tấu Quân Thiên.

Nhạc khởi đánh trống Tiếp Giá, rồi bắt qua đờn 3 bài như đã nói ở trên.

5. Nghệ hương án tiền.

(Bước tới đứng trước bàn hương)

Hai cặp Lễ sĩ đăng đài (LSĐĐ) đến đứng trước và hai bên Chức việc quì ngoại nghi (CVNN). Hai Lễ sĩ đài, một bên có một bó nhang 3 cây cột lại chưa đốt, một bên có lư trầm. Nếu không có trầm thì dùng nhang thơm cắt ra bó lại thành bó lớn đặt vào lư.

6. Giai quì. (Tất cả đều quì xuống)

Vị hầu chuông lần lượt khắc 3 tiếng, tất cả nam nữ đồng xá 3 xá rồi quì xuống.

7. Phần hương. (đốt nhang)

Vị quì ngoại nghi cầm bó nhang 3 cây, đốt nhang và đốt lư trầm xá 3 xá rồi trao cho cặp Lễ sĩ đài. Nhạc đánh thét cho 4 Lễ sĩ đứng dậy, lui ra, quay mặt vào chánh điện, chuẩn bị điện hương.

8. Điện hương.

LSĐĐ theo tiếng trống nhạc, điện dâng hương và dâng lư trầm từ ngoại nghi vào nội nghi.

9. Quì. LSĐĐ quì phía trước vị CSCĐ.

Lễ sĩ trao bó hương cho vị chứng đàn và lư trầm cho vị quì kế bên. Hầu chuông lần lượt khắc 3 tiếng, CSCĐ hai tay cầm bó hương cùng với mọi người xá 3 xá, vừa xá vừa niệm 3 lần :

– Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.
– Nam mô Cửu Vị Tiên Nương.
– Nam mô Bạch Vân Động Chư Thánh.

10. Thành kính tụng Niệm hương chú.

Đồng nhi tụng kinh Niệm Hương, giọng Nam ai. CSCĐ hai tay cầm bó hương kính cẩn nâng lên ngang trán và giữ như thế trong suốt thời gian đồng nhi tụng kinh Niệm Hương. Vị quì kế bên CSCĐ cũng nâng lư trầm lên ngang trán giống như CSCĐ.

11. Thượng hương. (Đem hương lên cắm vào lư hương)

CSCĐ cầm bó hương và vị quì kế bên cầm lư trầm, đồng xá 3 xá rồi trao cho hai vị tiếp lễ, một đem bó hương lên cắm vào lư hương trên bàn thờ, một cầm lư trầm lên đặt trên bàn thờ. Bốn Lễ sĩ đăng đài lui ra, trở bộ quay trở về ngoại nghi.

12. Cúc cung bái. (Cúi mình lạy xuống)

Nhạc đánh trống lập ban, toàn thể lạy Đức Phật Mẫu 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.

13. Thành kính tụng Khai Kinh chú.

Đồng nhi tụng bài Khai Kinh, giọng Nam ai.

Dứt bài kinh thì cúi đầu, không xá, không lạy.

14. Thành kính tụng Phật Mẫu Chơn Kinh.

Nhạc gài trống đờn Nam xuân, đồng nhi tụng bài Phật

Mẫu Chơn Kinh, giọng Nam xuân.

15. Cúc cung bái. (giống như mục số 12)

16. Cung hiến Tiên hoa. (Kính cẩn dâng hoa quí)

Hai Lễ sĩ đài sắp đặt một bên có một bình hoa nhỏ đủ 5 sắc hoa tươi, một bên có 1 trái cây, rồi 4 Lễ sĩ đăng đài đồng đến đứng trước vị quì ngoại nghi, day mặt vào nhau.

17. Quì. Bốn Lễ sĩ đăng đài quì xuống.

18. Chỉnh Tiên hoa. (Sửa sang hoa quí)

Vị quì ngoại nghi chỉnh sửa hoa và quả cho ngay ngắn, cầm bình hoa và dĩa quả xá xuống 3 xá, rồi trao cho hai Lễ sĩ đài.

Nhạc đổ 3 hồi, 4 Lễ sĩ đứng dậy, lui ra hai bên, quay mặt hướng vào nội nghi, chuẩn bị điện dâng hoa và quả.

19. Điện Tiên hoa. (Lễ sĩ điện dâng Hoa quí)

Lễ sĩ điện dâng hoa giống y như lúc Điện Hương. Trong lúc Lễ sĩ điện thì đồng nhi thài bài Dâng Hoa theo giọng Đảo Ngũ Cung. Khi thài tới chữ “Thượng Đế” thì đổi lại là : “Phật Mẫu”.

Cúi mong Phật Mẫu rưới ân Thiên.

Khi dứt thài, Lễ điện vừa tới nội nghi, day mặt vào giữa.

20. Quì. LSĐĐ và 2 tiếp lễ đều quì xuống trước CSCĐ.

CSCĐ tiếp lấy bình hoa, vị quì kế bên tiếp lấy dĩa trái cây, đồng xá 3 xá, rồi đưa lên trán cầu nguyện, có điểm chuông, đồng thời tất cả mọi người trong đàn cũng đưa ấn Tý lên trán cầu nguyện Dâng Hoa : “ Con xin dâng hình hài của con lên cho Đức Phật Mẫu tùy phương sử dụng.”

21. Thượng Tiên hoa. (Đem hoa quí đặt lên bàn thờ)

Cầu nguyện Dâng Hoa xong thì đưa bình hoa và dĩa trái cây cho hai vị tiếp lễ đem đặt lên bàn thờ. Nhạc đổ 3 hồi, Lễ sĩ đứng lên, trở bộ quay về ngoại nghi.

22. Cúc cung bái.

Tất cả trong đàn cúng đều lạy Phật Mẫu giống như mục 12. Lưu ý : Dâng mỗi bửu đều lạy Phật Mẫu 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm danh hiệu Phật Mẫu : Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.

23. Cung hiến Tiên tửu. (Cung kính dâng rượu quí)

Hai Lễ sĩ đài sắp đặt một bên có một ly nhỏ để đựng rượu, một bên có một cái nhạo rượu trắng tinh khiết, rồi 4 Lễ sĩ đăng đài đồng đến đứng trước vị quì ngoại nghi, day mặt vào nhau.

24. Quì. LSĐĐ quì xuống trước vị CVNN.

25. Chước tửu. (Rót rượu)

Vị CVNN cầm nhạo lên rót rượu vào ly, rồi hai tay cầm ly rượu xá 3 xá, trao lại cho Lễ sĩ đài. LSĐĐ đồng đứng dậy,lui ra, quay người hướng vào nội nghi, chuẩn bị điện dâng rượu.

26. Điện Tiên tửu. (Lễ sĩ điện dâng rượu quí )

Công việc giống y như Điện Tiên Hoa.

Đồng nhi thài bài Dâng Rượu, Lễ sĩ điện lên nội nghi.

27. Quì. LSĐĐ và 2 tiếp lễ đồng quì xuống trước CSCĐ.

Vị chứng đàn tiếp ly rượu, vị quì kế bên tiếp nhạo rượu, cầm lên xá 3 xá, đồng đưa lên trán cầu nguyện, có khắc chuông, tất cả mọi người trong đàn cúng cũng đưa ấn Tý lên trán cầu nguyện Dâng Rượu :“ Con xin dâng chơn thần của con lên cho Đức Phật Mẫu tùy phương sử dụng.”

28. Thượng Tiên tửu. (Đem rượu lên đặt trên bàn thờ)

Cầu nguyện xong, xá 3 xá, rồi trao ly rượu và bình rượu cho hai vị tiếp lễ đem đặt lên bàn thờ.

Nhạc đổ 3 hồi, Lễ sĩ đứng lên, trở bộ đi về ngoại nghi.

29. Cúc cung bái. (giống như mục số 22)

30. Cung hiến Tiên trà. (Cung kính dâng trà quí)

Hai Lễ sĩ đài sắp đặt, một bên đặt 1 bình trà, một bên đặt 1 cái tách để dựng nước trà. LSĐĐ cùng đến đứng trước vị CVNN.

31. Quì. LSĐĐ quì xuống trước vị CVNN.

32. Điểm trà. (Rót nước trà)

CVNN cầm lấy bình trà, rót nước trà vào tách, cầm tách trà đưa lên trán xá 3 xá, rồi trao lại cho Lễ sĩ đài. LSĐĐ đứng dậy, lui ra, quay người hướng vào nội nghi, chuẩn bị điện trà.

33. Điện Tiên trà. (Lễ sĩ điện dâng trà quí)

Công việc giống y như Điện Tiên Hoa.

Đồng nhi thài bài Dâng Trà, Lễ sĩ điện vào nội nghi.

34. Quì. LSĐĐ và 2 tiếp lễ đồng quì xuống.

Vị chứng đàn tiếp tách trà, vị quì kế bên tiếp bình trà, đồng xá 3 xá rồi đưa lên trán cầu nguyện, có khắc chuông, tất cả mọi người trong đàn cúng cũng đưa ấn Tý lên trán cầu nguyện Dâng Trà tức là dâng linh hồn, nhưng lần cầu nguyện chót nầy nên dâng cả Tam bửu lên Đức Phật Mẫu, vì đây là Bí pháp giải thoát:

“Con xin dâng cả thể xác, chơn thần và linh hồn của con lên cho Đức Phật Mẫu tùy phương sử dụng.”

35. Thượng Tiên trà. (Đem trà lên đặt trên bàn thờ)

Cầu nguyện xong, xá 3 xá, trao tách trà và bình trà cho hai vị tiếp lễ đem đặt lên bàn thờ.

Nhạc đổ 3 hồi, Lễ sĩ đứng lên, trở bộ đi về ngoại nghi.

36. Cúc cung bái. (giống như mục số 22)

37. Sớ văn thượng tấu. (Sớ văn tâu lên)

Hai Lễ sĩ đăng đi lên nội nghi, bước đi thường, không điện,

38. Quì.

Hai vị tiếp lễ, 1 vị cầm dĩa đựng sớ văn, 1 vị cầm cái thố (hay cái bình) để đựng tro lúc đốt sớ, quì phía dưới cặp Lễ sĩ đăng. Một vị có phận sự đọc sớ lên quì gần CSCĐ.

CSCĐ cầm sớ xá 3 xá, cầu nguyện, rồi rút tờ sớ ra trao cho người đọc sớ, còn vị CSCĐ hai tay cầm bao sớ cung kính nâng lên ngang trán trong suốt thời gian đọc sớ.

39. Thành độc sớ văn. (Thành kính đọc bài văn sớ)

Vị đọc sớ, cao giọng đọc lên, đến danh hiệu của các Đấng thì dừng lại một chút để khắc chuông cúi đầu kỉnh lễ.

Bài văn sớ cúng Đức Phật Mẫu ngày mùng 1 thường lệ (Sóc lệ) chép ra như sau :

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

(Thất thập . . . niên)

Tam giáo qui nguyên, Ngũ chi phục nhứt.

Thời duy, Thiên vận . . . . . . niên, . . . ngoạt, sơ nhứt nhựt, Dậu thời, hiện tại Việt Nam quốc, . . . . . Trấn, . . . . . Châu, . . . . . Tộc, . . . . . Hương, cư trụ Điện Thờ Phật Mẫu chi trung.

Kim đệ tử . . . (tên họ của vị chứng đàn). . . công đồng chư thiện nam tín nữ đẳng quì tại điện tiền, thành tâm trình tấu.

HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI :

Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn.

Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.

TAM TÔNG CHƠN GIÁO :

Tây Phương Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn,

Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn,

Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

TAM KỲ PHỔ ĐỘ TAM TRẤN OAI NGHIÊM :

Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai,

Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ,

Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân.

Gia Tô Giáo Chủ Cứu Thế Thiên Tôn,

Thái Công Tướng Phụ Quảng Pháp Thiên Tôn,

Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn,

Thập phương chư Phật, vạn chưởng chư Tiên, liên đài chi hạ.

Kim vì, sóc nhựt lương thần, chư thiện nam tín nữ đẳng nghiêm thiết đàn tràng, hương đăng hoa trà quả, thanh chước chi nghi, thành tâm hiến lễ.

Ngưỡng vọng Đức Kim Bàn Phật Mẫu, dĩ đức từ bi, chuyển họa vi phước, thoát ách tiêu tai, thế giới an ninh, cộng hòa nhơn loại, Tổ quốc Việt Nam đạt vinh quang, sanh chúng an cư lạc nghiệp, phục hồi Đường Ngu chi phong hóa.

Ngưỡng vọng Đức Kim Bàn Phật Mẫu, phát hạ hồng ân, hoằng khai Đại Đạo, độ tận chúng sanh, hiệp trí hòa tâm, tinh thần qui nhứt, vĩnh sùng chánh giáo, giải thoát tiền khiên, triêm ngưỡng Mẫu ân tứ phước.

Ngưỡng vọng Đức Kim Bàn Phật Mẫu, cứu độ các đẳng chơn linh quá vãng tảo đắc siêu thăng, an nhàn Cực Lạc.

Chư đệ tử đồng thành tâm khẩn nguyện cúc cung khấu bái thượng tấu

Dĩ văn.

Đệ tử : . . . (tên họ của vị chứng đàn) . . .

40. Cung phần Sớ văn. (Cung kính đốt sớ)

Vị chứng đàn đặt lá sớ vào bao sớ, cầm sớ xá 3 xá, hai Lễ sĩ đăng dụm hai ngọn đèn lại cho vị chứng đàn đốt sớ, thấy cháy được phân nửa thì bỏ vào thố, vị tiếp lễ đem thố đặt lên bàn thờ, hai Lễ sĩ trở về ngoại nghi, vị đọc sớ trở về chỗ cũ.

41. Cúc cung bái. (giống như mục số 12)

42. Thành tâm tụng Ngũ Nguyện.

Đồng nhi tụng Ngũ Nguyện.

43. Cúc cung bái. (giống như mục số 12)

44. Hưng bình thân. (Cất mình đứng thẳng lên)

Mọi người trong đàn cúng đứng thẳng dậy tại vị trí của mình. Khắc chuông, mọi người đứng xá sâu xuống 3 xá, quay trở ra sau xá 1 xá để kỉnh khí Sanh quang.

45. Cung thành thứ tự phân lập lưỡng ban.

(Cung kính, thứ tự, phân ra đứng thành hai ban : nam và nữ)

Tất cả tín đồ trong đàn cúng, lui ra hai bên, đứng trật tự như lúc mới nhập đàn.

Các Ban : Đồng nhi, lễ sĩ, lễ vụ, kiểm đàn, những người hầu đàn lần lượt vào chánh điện lạy Đức Phật Mẫu 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.

Riêng Ban Nhạc thì quì ngay trên lầu lạy Đức Phật Mẫu, vì còn phận sự đánh nhạc.

Người chấp sự trên lầu chuông dộng chuông bãi đàn.

Dộng trước 3 tiếng chuông, rồi kệ bài Kệ chuông bãi đàn, kệ xong 1 câu thì dộng 1 tiếng chuông lớn. Bài kệ chuông bãi đàn :

“Đàn tràng viên mãn, Chức sắc qui nguyên, . . . . . “

Tiếng chuông kệ bãi đàn vừa dứt, Lễ xướng :

46. Lễ thành. (Cuộc lễ cúng tế đã xong)

Nhạc đánh thét rồi dứt. Mọi người xá đàn 1 xá rồi bắt đầu đi ra. Các vị bên trong đi ra trước, đi hàng một, đi ra cũng trật tự như khi đi vào nhập đàn. Khi ra khỏi chánh điện mới xả ấn Tý.

Tất cả có 46 Nghi tiết trong lễ cúng đàn Đức Phật Mẫu tại Điện Thờ Phật Mẫu địa phương.

 

D. Nghi tiết cúng Tứ Thời tại Điện Thờ Phật Mẫu

Tượng thờ Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương nơi Báo Ân Từ

Cúng Tứ Thời tại Điện Thờ Phật Mẫu vào 4 thời điểm : Tý (0 giờ tức 12 giờ khuya), Mẹo (6 giờ sáng), Ngọ (12 giờ trưa), Dậu (18 giờ tức 6 giờ chiều).

1* Đúng giờ cúng, trên lầu chuông, vị chấp sự khởi dộng Chuông Nhứt.

Trước hết dộng 3 tiếng chuông, kệ 3 câu, mỗi câu dộng 1 tiếng chuông. Bài kệ chuông nhứt :

“ Văn chung khấu hướng . . . . . . . . . . . “.

Khi hết chuông nhứt, các tín đồ tham dự cúng Tứ thời đi vào chánh điện, sắp hàng hai bên, nam nữ đứng đối diện nhau, tay bắt ấn Tý, chờ nghe chuông nhì.

2* Kệ chuông nhì, dứt mỗi câu thì dộng 1 tiếng :

“ Nhứt vi u ám . . . . . . . . . . . . “

3* Người hầu chuông nơi nội nghi gõ 1 tiếng chuông, hai bên xá đàn 1 xá, bước vào trong, nhìn lên bàn thờ, gõ chuông 3 lần, xá 3 xá, quì xuống.

4* Người hầu chuông lần lượt khắc 3 tiếng, mọi người đưa ấn Tý lên trán vừa xá vừa niệm 3 lần :

– Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.

– Nam mô Cửu Vị Tiên Nương.

– Nam mô Bạch Vân Động Chư Thánh.

5* Đồng nhi tụng kinh Niệm Hương, giọng nam ai.

Lạy Phật Mẫu 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô

Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.”

6* Đồng nhi tụng Khai Kinh, giọng nam ai.

Dứt bài Khai Kinh thì cúi đầu, không xá, không lạy.

7* Đồng nhi tụng Phật Mẫu Chơn Kinh.

Lạy Phật Mẫu 3 lạy 9 gật, mỗi gật niệm : Nam mô

Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.”.

8* Đồng nhi tụng bài Tán Tụng Công Đức Diêu Trì

Kim Mẫu : “ Kể từ Hỗn độn sơ khai, . . . . . . “

(Bài Tán Tụng Công Đức Diêu Trì Kim Mẫu chỉ tụng khi cúng Tứ

Thời, còn khi cúng đàn thì không tụng).

Lạy Phật Mẫu 3 lạy 9 gật, niệm danh hiệu Phật Mẫu.

9* Đến phần Dâng Tam bửu, tùy theo thời mà thài.

– Cúng khuya và trưa : thài bài Dâng Rượu.

– Cúng sáng và chiều : thài bài Dâng Trà.

Dù thài dâng Rượu hay dâng Trà, chúng ta cũng cứ cầu nguyện dâng đủ Tam bửu lên Đức Phật Mẫu, giống y như cầu nguyện dâng Tam bửu lên Đức Chí Tôn, vì đây là Bí pháp giải thoát chúng ta khỏi luân hồi :

“Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn,

Nam mô Cửu Vị Tiên Nương,

Nam mô chư Phật chư Tiên chư Thánh chư Thần.

Con xin dâng cả thể xác, chơn thần và linh hồn của con lên cho Đức Phật Mẫu tùy phương sử dụng.

Cầu xin các Đấng thiêng liêng chứng minh. “

Lạy Đức Phật Mẫu 3 lạy 9 gật và niệm như trên.

10* Tụng Ngũ Nguyện.

Lạy Đức Phật Mẫu như trên.

Đứng dậy, xá 3 xá, quay ra sau xá 1 xá, lui ra đứng hai bên chánh điện như lúc mới nhập đàn. Chờ kệ chuông bãi đàn.

11* Kệ chuông bãi đàn :

“ Đàn tràng viên mãn, Chức sắc qui nguyên . . . . .”

Dứt kệ chuông bãi đàn, vị hầu chuông nơi nội nghi khắc 1 tiếng chuông, hai bên xá đàn 1 xá, rồi bắt đầu đi ra, trong đi ra trước, lần lần tới ngoài. Hết.

Đức Phật Mẫu, Cửu vị Tiên Nương và 4 Tiên đồng nữ nhạc cỡi chim Thanh loan bay xuống cõi trần.

 

E. Giải thích các chi tiết

1. Cửu vị Tiên Nương – Cửu vị Nữ Phật :

Cửu vị Tiên Nương là 9 vị Nữ Tiên hầu Đức Phật Mẫu và giúp việc cho Đức Phật Mẫu.

Trong thời khai Đạo, Cửu vị Tiên Nương lập được nhiều công quả nên đắc thành Phật vị, gọi là Cửu vị Nữ Phật.

Nhưng, 9 Đấng ấy, khi thi hành nhiệm vụ giáo hóa và phổ độ nhơn sanh thì xưng là Cửu vị Tiên Nương; khi an ngự trên ngôi vị thì xưng là Cửu vị Nữ Phật.

Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương ngự tại Diêu Trì Cung nơi từng trời thứ 9 : Tạo Hóa Thiên của Cửu Trùng Thiên.

Trong Cửu vị Tiên Nương, các Đấng thường giáng cơ dạy đạo là : Bát Nương, Thất Nương, Lục Nương, Ngũ Nương. Kể từ khi Thất Nương đảm nhận nhiệm vụ giáo hóa các nữ tội hồn tại cõi Âm Quang thì Thất Nương ít có thời giờ rảnh để giáng cơ dạy Đạo.

2. Bạch Vân Động chư Thánh :

Bạch Vân Động là một cái động trên Mặt Trăng, làm nơi cư ngụ cho các vị Thánh, mà Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ tức là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là Động chủ.

Các vị Thánh nơi Bạch Vân Động có nhiệm vụ bảo vệ Đức Phật Mẫu mỗi khi Đức Phật Mẫu du hành hay đi xuống cõi trần. Cho nên khi thờ Đức Phật Mẫu, chúng ta cũng thờ luôn Bạch Vân Động chư Thánh.

Trước khi Chí Tôn mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, các vị Thánh Bạch Vân Động được lịnh giáng sanh xuống cõi trần để Đức Chí Tôn lập thành Hội Thánh trong buổi đầu khai đạo.

Đối với nhơn loại thì con người không thể ở trên Mặt Trăng vì nơi ấy không có nước và không khí, nhưng đối với các Đấng thiêng liêng, Mặt Trăng là nơi để dừng chân trước khi các Đấng ấy giáng xuống cõi trần (tức là đi xuống địa cầu của nhơn loại).

3. Giải thích lòng sớ cúng Đức Phật Mẫu :

“ Nay vì ngày mùng 1 giờ tốt, các vị thiện nam tín nữ nghiêm trang thiết lập đàn cúng tế với nhang đèn, bông trà trái cây, rượu tinh khiết làm nghi thức, thành tâm hiến lễ.

Ngưỡng vọng Đức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn, lấy đức từ bi chuyển họa làm phước, thoát khỏi khổ ách, tiêu tan tai nạn, thế giới được an ninh, nhơn loại cộng hòa, Tổ quốc Việt Nam đạt được vinh quang, dân chúng an cư lạc nghiệp, phục hồi nền phong hóa như thuở vua Nghiêu vua Thuấn.

Ngưỡng vọng Đức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn, ban xuống hồng ân, hoằng khai Đại Đạo, độ tận chúng sanh, hiệp trí hòa tâm, tinh thần qui nhứt, vĩnh sùng chánh giáo, giải thoát khỏi các tiền khiên nghiệp chướng, chiêm ngưỡng ơn phước của MẸ ban cho.

Ngưỡng vọng Đức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn, cứu độ các cấp chơn linh đã quá vãng, sớm được siêu thăng, an nhàn nơi cõi Cực Lạc.

Các đệ tử đồng thành tâm cầu khẩn mong ước, cúi mình lạy xuống, tâu lên.

Kính trình.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *