Bài viết dưới đây sẽ tổng hợp các phương pháp, cách tính giúp lựa chọn giới tính sinh con theo ý muốn.
Nội dung chính bài viết:
- Nhờ những tiến bộ kỹ thuật của ngành y tế, các cặp vợ chồng hoàn toàn có thể lựa chọn giới tính của con cái với mục đích “cân bằng gia đình” hoặc tránh lây bệnh rối loạn di truyền liên quan đến giới tính của con mình.
- Có nhiều phương pháp chọn lọc giới tính thai nhi, từ đơn giản tới công nghệ cao, khác nhau về chi phí và kỹ thuật thực hiện.
- Đối với thụ tinh trong ống nghiệm IVF: hoàn toàn có thể sàng lọc giới tính của phôi thai trước khi cấy chuyển phôi.
- Phương pháp Ericsson có hiệu quả cao và chi phí thấp hơn IVF: bằng cách chọn lọc tinh trùng dựa trên tốc độ bơi của chúng, sau đó cho thụ tinh theo ý muốn giới tính.
- Sinh con trai, con gái theo ý muốn thực hiện tại nhà: dựa vào thời điểm rụng trứng để đặt thời gian quan hệ phù hợp. Theo nhiều lý thuyết, quan hệ càng gần ngày rụng trứng thì dễ có được bé trai hơn, còn cách ngày rụng trứng 2-4 ngày thì khả năng có được bé gái cao hơn.
Có thể, việc lựa chọn giới tính của con bạn về mặt kỹ thuật là có thể, nhờ những tiến bộ trong điều trị sinh đẻ cho phép các bác sĩ xác định phôi nam và nữ. Lựa chọn giới tính là một lựa chọn cho những cặp vợ chồng muốn tránh lây bệnh rối loạn di truyền liên quan đến giới tính của con mình. Nó cũng thu hút các cặp cha mẹ đã có con một bề và muốn có thêm con giới tính khác. (Đôi khi được gọi là để “cân bằng gia đình”).
Tuy nhiên, các phương pháp lựa chọn giới tính ngày nay không có hiệu quả giống nhau, chi phí khác nhau.
Các phương pháp lựa chọn giới tính chính xác nhất sẽ đắt nhất (hàng chục ngàn USD) và thường có nghĩa là bạn phải trải qua các phương pháp điều trị can thiệp sinh sản và dùng các thuốc tác dụng thụ thai với các phản ứng phụ tiềm ẩn. Nếu bạn nghiêm túc về việc thử một trong những kỹ thuật này để cân bằng gia đình, bạn sẽ phải đáp ứng các yêu cầu nghiêm ngặt. Tại một số phòng khám về khả năng sinh sản, bạn sẽ không đủ điều kiện để làm trừ khi bạn kết hôn và đã có ít nhất một đứa trẻ khác giới bạn đang muốn có thêm. Và một số phòng khám có giới hạn độ tuổi vợ chồng, nhưng tất cả sẽ thực hiện các xét nghiệm nội tiết để xem bạn có còn “nhạy” hay không.
Hãy nhớ rằng Mẹ Thiên Nhiên đã mang đến nhiều bé trai hơn một chút: Theo dữ liệu từ Trung tâm Thống kê Y tế Quốc gia, khoảng 105 bé trai được sinh ra cho mỗi 100 bé gái.
Công nghệ điều trị vô sinh là phương pháp được sử dụng để cố gắng lựa chọn giới tính của em bé.
Thụ tinh nhân tạo (AI) và thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) là hai phương pháp điều trị vô sinh mà cũng có thể sử dụng các kỹ thuật chọn giới tính ở trong đó.
Những điều trị này yêu cầu bạn phải đầu tư thời gian, tiền bạc và thường có nghĩa là bạn phải dùng thuốc hỗ trợ sinh sản. Hãy chắc chắn bạn hiểu những gì có liên quan trước khi quyết định lựa chọn giới tính trai hay gái cho em bé.
Thụ tinh nhân tạo AI là phương pháp đưa tinh trùng vào gần vị trí cần thụ tinh. Có nhiều phương pháp điều trị, nhưng phổ biến nhất là Bơm tinh trùng vào buồng tử cung (IUI).
Trong quy trình IUI, bác sĩ sẽ sử dụng một ống mềm nhỏ để bơm trực tiếp tinh trùng của người chồng vào tử cung của người vợ. Người vợ cũng có thể cần dùng thuốc kích trứng.
Còn đối với thụ tinh trong ống nghiệm IVF, thụ tinh diễn ra bên ngoài cơ thể. IVF bắt đầu với một chu kỳ dùng thuốc để kích thích buồng trứng người vợ sản xuất nhiều trứng để thụ tinh, thay vì một quả trứng được giải phóng mỗi tháng.
Khi trứng đã sẵn sàng để được lấy ra, bác sĩ sẽ gây mê và siêu âm qua âm đạo để kiểm tra buồng trứng và nang trứng (các túi chứa chất lỏng nơi trứng trưởng thành). Sau đó, bác sĩ luồn một cây kim nhỏ qua thành âm đạo vào buồng trứng để lấy trứng ra khỏi nang trứng (chọc hút trứng).
Sau đó, trứng được thụ tinh với tinh trùng trong một đĩa petri. Ba đến năm ngày sau, bác sĩ sẽ chuyển phôi (trứng đã được thụ tinh) vào trong tử cung bằng cách luồn một ống nhỏ qua âm đạo và đi qua cổ tử cung để vào tử cung. Số lượng phôi được chuyển vào phụ thuộc vào độ tuổi, chất lượng của phôi và lịch sử sinh sản của bạn.
Theo nguyên tắc chung, nếu bạn trẻ hơn 35 tuổi và phôi trông khỏe mạnh, thì không quá hai phôi được chuyển.
Kiểm tra giới tính trước chuyển phôi là gì?
Quy trình kiểm tra giới tính con trai, con gái có thể được thực hiện trong quá trình IVF. Bác sĩ lấy một hoặc hai tế bào từ phôi thai và xét nghiệm chúng để kiểm tra rối loạn di truyền hoặc nhiễm sắc thể. Có hai loại xét nghiệm – chẩn đoán di truyền trước chuyển phôi (PGD) và sàng lọc di truyền trước chuyển phôi (PGS). Cả hai đều có thể được sử dụng để sàng lọc các phôi để chọn giới tính, và xét nghiệm mà bạn phải thực hiện phụ thuộc vào lý do bạn muốn chọn giới tính của con bạn.
Trong PGD, cha mẹ có rối loạn di truyền nghiêm trọng có thể kiểm tra phôi của mình và giảm nguy cơ có con với bệnh đó. Đôi khi điều quan trọng là xác định giới tính của phôi vì có một số rối loạn di truyền nhất định liên quan đến giới tính và chủ yếu ảnh hưởng đến bé trai.
Ví dụ, nếu một cặp vợ chồng có nguy cơ sinh con trai bị chứng loạn dưỡng cơ Duchenne, thì PGD có thể xác định phôi nam có gen bất thường, phôi đó sẽ không được cấy vào tử cung.
Ở PGS, phôi từ cha mẹ được cho là có số lượng nhiễm sắc thể bình thường sẽ được kiểm tra các rối loạn về nhiễm sắc thể, như hội chứng Down. PGS cũng có thể sàng lọc phôi để chọn giới tính, vì vậy một số bệnh viện cung cấp xét nghiệm này vì lý do phi y tế, bao gồm mục đích cân bằng gia đình.
Tính hiệu quả
PGD và PGS cung cấp kết quả chính xác gần 100% khi xác định giới tính của phôi.
Sàng lọc giới tính sinh con trai, con gái được thực hiện như thế nào
Trong chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm IVF, trứng được thụ tinh với tinh trùng trong một đĩa petri. Một tế bào đơn hoặc một số tế bào sau đó được lấy ra từ mỗi phôi từ 3 đến 5 ngày tuổi và xét nghiệm các rối loạn di truyền hoặc kiểm tra bộ nhiễm sắc thể bình thường cũng như các nhiễm sắc thể giới tính X và Y.
Trong một chu kỳ IVF thông thường, các nhà khoa học cố gắng xác định phôi nào có cơ hội cấy ghép tốt nhất bằng cách soi dưới kính hiển vi. Và trong quá trình xét nghiệm di truyền, các phôi được kiểm tra kỹ lưỡng về các bất thường di truyền hoặc nhiễm sắc thể và giới tính.
Bằng cách chỉ chuyển các phôi khỏe mạnh vào tử cung, nguy cơ bị sảy thai hoặc có con bị rối loạn di truyền sẽ giảm đi. Các xét nghiệm trước khi sinh, như chọc ối hoặc sinh thiết gai nhau (CVS), cũng có thể được thực hiện nếu bạn từ 35 tuổi trở lên để kiểm tra các bất thường về di truyền.
Đối với thụ tinh trong ống nghiệm IVF, các bác sĩ thường chuyển nhiều hơn một phôi vào tử cung của bạn – số lượng phụ thuộc vào độ tuổi, chất lượng phôi, và lịch sử sinh sản của bạn. (Nếu bạn 40 tuổi trở lên, có thể chuyển từ 3 đến 4 phôi). Nhưng nếu bạn đã làm xét nghiệm sàng lọc di truyền PGD hoặc PGS, các bác sĩ thường chuyển phôi ít hơn bởi vì họ đã loại bỏ những phôi kém chất lượng.
Ưu điểm
- Nếu bạn mang thai, PGD và PGS sẽ đảm bảo chắc chắn gần như 100% rằng bạn sẽ có một em bé theo giới tính con trai hoặc con gái mà bạn mong muốn.
- Sau khi chẩn đoán và sàng lọc phôi trước khi chuyển phôi, số phôi còn lại của cả hai giới tính có thể được đông lạnh (đông lạnh phôi). Những phôi này có thể được sử dụng trong tương lai để đề phòng trường hợp sảy thai hoặc dự phòng nhu cầu muốn có thêm con. Phôi đông lạnh có tỷ lệ thành công tương tự như chuyển phôi tươi, nhưng thủ thuật ít xâm lấn hơn và rẻ hơn đáng kể.
Nhược điểm
- Chi phí đắt đỏ, đặc biệt khi IVF kết hợp chẩn đoán và sàng lọc di truyền trước khi chuyển phôi.
- Quy trình xâm lấn, có can thiệp chọc hút trứng nên có thể gây đau.
- Thuốc hỗ trợ sinh sản có thể gây phản ứng phụ khó chịu, bao gồm tăng cân, phù nề, giảm thị lực.
- Như với mọi quy trình IVF khác, bạn có nhiều khả năng thụ đa thai. Theo số liệu thống kê mới nhất của các Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa bệnh tật Hoa Kỳ, trong số tất cả trẻ sơ sinh được thụ thai qua IVF (và các thủ thuật có liên quan đến việc chuyển phôi nhiều lần) khoảng 46% là cặp song sinh hoặc thai ba, bốn,…. Tuy nhiên, khả năng đa thai có thể thấp hơn nếu sử dụng thêm PGD và PGS vì trong nhiều trường hợp chỉ có một phôi được chuyển.
- Ở phụ nữ dưới 35 tuổi, khoảng 46% thai sống sót sau chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm IVF tươi và tỷ lệ phần trăm giảm xuống khi bạn lớn tuổi hơn. (Hầu hết các trung tâm thực hiện IVF đều báo cáo tỷ lệ thành công cao hơn khi kết hợp với PGD và PGS vì phôi bất thường đã được loại trừ).
- Bạn sẽ cần phải quyết định sẽ làm gì với phôi chưa cần sử dụng: đông lạnh, loại bỏ, hoặc hiến tặng để cho con nuôi hoặc nghiên cứu.
Chi phí của xét nghiệm sàng lọc giới tính sinh con trai, con gái
Theo Hiệp hội Y khoa Sinh sản Hoa Kỳ, chi phí trung bình của một quy trình IVF đơn là khoảng 100 triệu. Xét nghiệm di truyền và giới tính trước khi chuyển phôi sẽ tăng thêm chi phí.
Tình trạng cung cấp dịch vụ sinh con trai, con gái theo ý muốn
Một số bệnh viện cung cấp xét nghiệm di truyền trước khi bắt đầu mang thai với lý do y tế, chứ không phải để lựa chọn giới tính. Các trung tâm khác cho phép bạn sử dụng PGS để chọn giới tính của em bé, ngay cả khi bạn không có lý do y tế để làm như vậy. Hãy gọi đến các phòng khám sinh sản để tìm hiểu chính sách của họ về việc lựa chọn giới tính thai nhi.
Kỹ thuật Ericsson hiệu quả khá cao và chi phí thấp.
Phương pháp Ericsson là gì?
Kỹ thuật này, được đặt tên theo người tiên phong Ronald Ericsson, nhằm mục đích tách biệt tinh trùng bơi nhanh hơn ( tinh trùng sản sinh ra con trai) ra khỏi tinh trùng bơi chậm hơn (tinh trùng sản sinh ra con gái). Theo lý thuyết, tinh trùng sẽ được bơm trực tiếp vào tử cung của bạn thông qua thụ tinh nhân tạo AI sẽ trở thành giới tính mong muốn của em bé.
Tính hiệu quả của sinh con trai, con gái theo phương pháp của Ericson
Ericsson cho biết kỹ thuật của ông có từ 78 đến 85% hiệu quả khi lựa chọn bé trai và 73 đến 75% hiệu quả để chọn bé gái.
Phương pháp sinh con trai, gái Ericsson được thực hiện như thế nào?
Thứ nhất, một mẫu tinh trùng được đổ lên một lớp dịch keo trong ống nghiệm. Tất cả tinh trùng tự nhiên bơi xuống, nhưng tinh trùng sản sinh ra bé trai có xu hướng bơi nhanh hơn và đạt đến đáy sớm hơn.
Dựa vào tốc độ bơi để chọn lọc tinh trùng và cho thụ tinh với trứng theo giới tính bạn mong muốn.
Ưu điểm
- Không tốn kém so với các phương pháp công nghệ cao.
- Không xâm lấn.
- Tương đối an toàn.
Nhược điểm
- Không có sự đảm bảo thành công. Ericsson đã công bố rộng rãi và tuyên bố tỷ lệ thành công khoảng 75 đến 80%. Tuy nhiên, các đánh giá của xét nghiệm vẫn chưa được công bố bởi các chuyên gia sinh sản khác hoặc đã được chứng minh một cách độc lập.
- Thụ tinh nhân tạo AI không có hiệu quả như thụ tinh trong ống nghiệm IVF, và có thể mất nhiều chu kỳ để mang thai, tùy theo tuổi và khả năng sinh sản của bạn.
Tình trạng cung cấp dịch vụ Ericsson
Kỹ thuật này có sẵn cho tất cả mọi người tại các bệnh viện sinh sản.
Những phương pháp công nghệ thấp này là không tốn kém và có giá cả phải chăng, và bạn có thể làm chúng một cách kín đáo tại nhà riêng của mình. Tất cả những gì bạn cần làm là lập biểu đồ nhiệt độ cơ thể của bạn hoặc sử dụng một que thử rụng trứng để xác định khi nào sẽ rụng trứng. Sau đó, đặt thời gian quan hệ phù hợp.
Phương pháp Shettles
Quan hệ được định giờ vào những ngày cụ thể trong chu kỳ của bạn.
Tính hiệu quả
Những người ủng hộ phương pháp Shettles cho rằng kỹ thuật này có hiệu quả đến 75% trong việc lựa chọn các bé gái và 80% trong việc chọn bé trai, nhưng các chuyên gia khác lại nghi ngờ. Hãy nhớ rằng bạn luôn có khoảng 50% cơ hội thụ thai một đứa trẻ mang giới tính bạn muốn.
Cách thực hiện
Lý thuyết cho thấy, tinh trùng mang một nhiễm sắc thể Y (đẻ con trai) di chuyển nhanh hơn nhưng không sống lâu như tinh trùng mang nhiễm sắc thể X (đẻ con gái).
Vì vậy, nếu bạn muốn sinh con trai, phương pháp Shettles cho rằng bạn nên quan hệ tình dục càng gần với ngày rụng trứng càng tốt. Nếu bạn muốn sinh con gái, hãy lên kế hoạch quan hệ tình dục từ hai đến bốn ngày trước khi rụng trứng.
Ưu điểm
- Không đòi hỏi sử dụng thuốc hoặc thủ tục y tế xâm lấn.
- Chi phí thấp hoặc không tốn phí.
- An toàn.
Nhược điểm
- Bạn phải sử dụng que thử rụng trứng để biết khi nào mình sẽ rụng trứng, hoặc lập biểu đồ nhiệt độ cơ thể để ước tính thời gian tốt nhất để có quan hệ.
- Không đảm bảo thành công.
Tính khả dụng
Bất cứ ai cũng có thể thử nó ở nhà.
Phương pháp Whelan
Quan hệ hẹn giờ vào những ngày cụ thể trong chu kỳ của bạn.
Tính hiệu quả
Elizabeth Whelan cho biết kỹ thuật của cô có 68% hiệu quả trong việc chọn giới tính bé trai và 56% hiệu quả trong việc chọn giới tính bé gái, nhưng nhiều chuyên gia lại nghi ngờ. Hãy nhớ rằng bạn luôn có cơ hội 50% cơ hội thụ thai đứa trẻ mang giới tính bạn muốn.
Cách thực hiện
Phương pháp Whelan mâu thuẫn trực tiếp với phương pháp Shettles. Lý thuyết ở đây là những thay đổi về sinh hóa của phụ nữ (tạo điều kiện sống thuận lợi cho tinh trùng sản xuất bé trai) xảy ra sớm hơn trong chu kỳ của người phụ nữ.
Vì vậy, nếu bạn muốn có một cậu bé, bạn nên có giao hợp từ bốn đến sáu ngày trước khi nhiệt độ cơ thể bạn tăng lên. Nếu bạn muốn có một cô gái, hãy lên kế hoạch quan hệ tình dục từ hai đến ba ngày trước khi rụng trứng.
Ưu điểm
- Không đòi hỏi dùng thuốc hoặc thủ tục y tế xâm lấn.
- Chi phí thấp hoặc không tốn phí
- An toàn.
Nhược điểm
- Bạn cần phải đo nhiệt độ cơ thể mỗi ngày để biết khi nào sẽ rụng trứng, hoặc sử dụng que thử rụng trứng.
- Không có sự đảm bảo thành công.
Tính khả dụng
Bất cứ ai cũng có thể thử nó ở nhà.
Bộ dụng cụ chọn giới tính
Các bộ dụng cụ tại nhà này được dựa trên lý thuyết Shettles. Bộ chọn bé gái và bé trai riêng biệt, bao gồm nhiệt kế, que thử rụng trứng, vitamin, chất chiết xuất từ thảo mộc và dụng cụ thụt rửa âm đạo nhằm mục đích hỗ trợ dễ dàng thụ tinh một giới tính cụ thể.
Tính hiệu quả
Các nhà sản xuất bộ dụng cụ báo cáo tỷ lệ thành công là 96%, nhưng một số chuyên gia y tế cho biết tuyên bố của nhà sản xuất không có giá trị khoa học.
Cách hoạt động
Bạn sẽ theo dõi chu kỳ bằng cách sử dụng nhiệt kế và nhúng que thử rụng trứng vào nước tiểu. Theo phương pháp Shettles, bạn quan hệ tình dục từ hai đến bốn ngày trước khi rụng trứng nếu bạn muốn sinh con gái và nếu bạn muốn sinh con trai thì càng gần ngày rụng trứng càng tốt.
Dụng cụ thụt rửa nhằm thay đổi môi trường âm đạo để “tác động đến khả năng tinh trùng X hoặc tinh trùng Y thành công trong việc thụ tinh trứng.” Vitamin và chất chiết xuất từ thảo dược cũng được đi kèm để tăng tỷ lệ nhận được một đứa trẻ mang giới tính bạn muốn.
Ưu điểm
- Không yêu cầu thủ tục y tế xâm lấn.
- Tiện lợi
Nhược điểm
- Tỷ lệ thành công mà các nhà sản xuất tuyên bố là đáng ngờ.
- Đắt.
Tính khả dụng
Lựa chọn giới tính có sẵn thông qua GenSelect.
Các phương pháp lựa chọn giới tính công nghệ cao đã gây tranh cãi rầm rộ trong cộng đồng y khoa. Một số bác sĩ nghĩ đó là một cách tuyệt vời để cân bằng giữa các gia đình, trong khi những người khác nghĩ rằng chúng ta đang đi con đường nguy hiểm.
Mark Sauer, chuyên gia về khả năng sinh sản và giám đốc chương trình tại Trung tâm chăm sóc sinh sản phụ nữ tại Đại học Columbia, New York, cho rằng lựa chọn giới tính để cân bằng gia đình là hành vi vô đạo đức và không được thực hiện phong các phương pháp điều trị sinh sản.
“Tôi không thể chấp nhận việc phá hủy phôi người bình thường vì chúng có giới tính không đúng mong muốn” ông nói.
Không phải tất cả các bác sĩ về sinh sản đều đồng ý với Sauer. Mặc dù Hiệp hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ chính thức phản đối việc thử nghiệm di truyền trước khi cấy ghép vì những lý do phi y học, nhưng thừa nhận rằng lựa chọn giới tính không nên bị lên án trong mọi trường hợp và không nên khiến nó trở thành hành động bất hợp pháp.
Lựa chọn giới tính công nghệ thấp đã không gây ra một cuộc tranh cãi tương tự, có lẽ bởi vì những phương pháp này không có khả năng đánh giá cao, và giả định là các cặp vợ chồng thực hành chúng đang đầu tư ít hơn cả về tài chính và yếu tố tinh thần – vào sự thành công của họ. Nhưng chúng có hiệu quả không?
Những kỹ thuật này bao gồm từ Shettles và Whelan đến những bí quyết từ dân gian (như “yêu” ở tư thế đứng và ăn nhiều thịt nếu bạn muốn có một cậu bé và ăn nhiều socola và quan hệ tình dục ở tư thế truyền giáo nếu bạn muốn có một bé gái). Hiệp hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ nói rằng không có bằng chứng nào về điều này có thể ảnh hưởng đến giới tính của em bé.
Brian Acacio, một chuyên gia về sinh sản và là giám đốc y tế của Viện nghiên cứu sức khoẻ sinh sản Sher ở Los Angeles nói: “Tôi nói với các bệnh nhân của tôi rằng nếu họ muốn thử các phương pháp công nghệ thấp, hãy cứ thử. Có thể họ sẽ không đau, và có 50% cơ hội thành công.”