Y CỔ XƯA TẠI VIỆT NAM 1950-1970
Tại Việt Nam, thế giới đồng hồ đeo tay cổ xưa được ghi nhận thịnh vượng khoảng thập niên 50-70 của thế kỷ trước. Ban đầu, đồng hồ đã du nhập vào nước ta theo bước chân của người Pháp, những nhà tri thức Tây học, rồi kết thúc khi người Mỹ rời khỏi đây.
Longines Đô đốc Đại tướng quân 5 sao (Admiral 5 Stars), đỉnh cao về đồng hồ dành cho sĩ quan cấp tướng tá
Trong thập niên 30, đồng hồ đeo tay chỉ mới xuất hiện, đến thập niên 40 thì mới dần đông đúc. Từ thập niên 50 đến 70 chính là thời kỳ hoàng kim của chúng tại Việt Nam.
Nếu chia theo giai đoạn thì sẽ có 3 khoảng thời gian đáng chú ý. Thập niên 60 trở về trước thế giới đồng hồ đeo tay cổ xưa ở Việt Nam bị ảnh hưởng bởi người Pháp. Thập niên 60-70 bị ảnh hưởng bởi người Mỹ. Thập niên 80-90 ảnh hưởng bởi người Nhật. Năm 2000 trở về sau thì chính thức trở thành nơi có đa văn hóa đồng hồ đeo tay.
Sẽ có rất nhiều câu chuyện xoay quanh chúng nhưng nhìn tổng thể từ 1950-1970, ta có thể đúc kết ra được 5 sự thật như sau:
1 – Chủ yếu là đồng hồ dây da
2 – Đồng hồ mạ vàng (lắc kê) là xu hướng
3 – Đồng hồ Nhật là đồ “rẻ tiền”
4 – Omega là thương hiệu được thích nhất
5 – Rất mỏng và rất nhỏ
SỰ THẬT 1 – CHỦ YẾU LÀ ĐỒNG HỒ DÂY DA, DÂY SẮT RẤT ÍT GẶP
Như chúng ta vẫn biết, đồng hồ dây da thì luôn thanh lịch và nhẹ nhàng, còn dây kim loại nặng nề vốn được sinh ra để có thể chịu được những điều kiện khắt nghiệt hơn. Chúng có thể hoạt động ngoài trời, chịu nước tốt, loại bỏ yếu điểm đáng ghét dây da như hôi, kén mồ hôi.
Điều này hoàn toàn không có vấn đề gì to tát ở nước ngoài, tuy nhiên, ở Việt Nam thì lại khác. Trong thời đại này, kể cả từ những thương hiệu bình dân nhất đều rất đắt đỏ so với một tháng lương công chức thời Pháp thuộc, thời Cộng hòa.
Bởi thế, những người có thể sử dụng hầu như đều là quan quyền, chính khách, giới thượng lưu, sĩ quan cấp cao hoặc ít nhất phải là người trí thức. Họ thường chỉ ngồi bàn giấy, không phải làm những công việc nặng nhọc, không cần đến độ bền nhưng “kém trang nhã” của dây kim loại nói chung.
Những mẫu nổi tiếng nhất, dòng được ưa chuộng nhất trong thời này hầu như là dây da, từ hạng sang, cao cấp như Omega, Longines đến bình dân như Wyler, Telda.
Thêm vào đó, cổ tay người Việt vốn không to, dây da sẽ mang lại cảm giác rất nhẹ, không làm vướng bận. Thậm chí, ngay cả khi là đồng hồ “nồi đồng cối đá” của Seiko hay Liên Xô, người ta vẫn thích thay cho chúng dây da.
Đồng hồ đeo tay cổ Telda lên dây Cal.FHF 28 năm 1950, thương hiệu Thụy Sĩ cực kỳ phổ biến ở Việt Nam từ 1930-1970 (Telda thương hiệu của hãng Charles Nicolet, ra đời khoảng năm 1920, rất nổi tiếng tại Pháp và thuộc địa của Pháp)
Còn đồng hồ dây kim loại vốn được chế tạo để bền bỉ, phục vụ cho những người có việc làm chuyên nghiệp như lặn, thợ nghề, công nhân, binh lính nên thường thô dày, to lớn.
Hiển nhiên, vẫn có rất nhiều đồng hồ dây kim loại tao nhã và sang trọng từ các ông lớn hàng đầu như Omega, Rolex, Patek nhưng chúng vẫn không phổ biến ở Việt Nam.
Và cho dù là dây kim loại thì của Thụy Sĩ giá vẫn đắt đỏ như thường. Hàng Nhật vừa nhiều vừa rẻ nhiều nhưng lại không có “đường lớn” nhập khẩu vào nước ta. Nguyên do có thể là do sự phủ sóng mạnh mẽ của Mỹ, Liên Xô, Pháp.
Đồng hồ của các nước này lẫn “gu” đồng hồ của họ luôn ảnh hưởng sâu đậm đến người Việt trong suốt thời gian hiện diện, người Nhật khó mà chen chân. Những mẫu dây kim loại vào đến Việt Nam chủ yếu là “xách tay” bởi quân đội nước ngoài (Mỹ, Liên Xô), chứ không phải hàng dân dụng.
Điển hình như Orient pháo binh, Seiko Sportmatic 5, Seiko 5, Seikomatic từ Nga như Vostok Amphibia, Pobeda, Raketa, Poljot. Đặc điểm chung của chúng là bền và rẻ hơn nhiều so với đồng hồ Thụy Sĩ, phù hợp với lương của quân nhân (miền Nam), hoặc cấp cho sĩ quan quân đội nhân dân (miền Bắc).
Seiko Sportmatic 5 1963 máy Seikosha 410 21 Jewel với “dây thun” thép, Sportmatic 5 (tiền thân của Seiko 5) chính là dòng đi tiên phong sử dụng dây thép của Seiko
Ngoài việc thẩm mỹ thời bấy giờ chuộng dây da hơn, sự khác biệt của “tầng lớp” sử dụng, giá thành đã dẫn đến việc đồng hồ dây kim loại được xem là “thấp” hơn dây da một bậc.
Bình quân, giá đồng hồ dây da rẻ lắm cũng phải từ 1 chỉ vàng trở lên, phần lớn rất sang trọng với kiểu dáng-chức năng như “2 kim rưỡi” (kim giây nhỏ), “lịch lộc” (lịch ở 6 giờ), “lắc kê” (bọc vàng), “mặt lụa” (mặt số có họa tiết lụa), mỏng (dưới 10mm).
Ngược lại, đồng hồ dây kim loại thì có thể rẻ hơn gấp 3 lần, chủ yếu do các “ông bé” kém danh tiếng từ Nhật như Seiko, Orient, Citizen cung cấp, to dày gồ ghề “như cái cối”, rất ít mẫu thanh lịch.
Một chiếc Longines vàng đặc 18k 2 kim rưỡi, dây da, thiết kế thanh lịch siêu kinh điển của giới thượng lưu Việt Nam ngày xưa
Định kiến về dây da và dây kim loại tồn tại suốt từ khi mẫu đầu tiên du nhập (khoảng thập niên 30), đến đầu thập niên 70 thì bắt đầu biến mất. Lúc này, người Việt phần nào đã nhận ra được ích lợi của dây kim loại sau hàng chục năm sử dụng, ít nhất là với công nhân viên chức thu nhập bình thường.
Xu hướng này lại càng mạnh mẽ hơn sau năm 75, đất nước khó khăn, kinh tế trì trệ, người ta không có tiền mua đồng hồ Thụy Sĩ, con đường nhập khẩu cũng lắm gian truân. Từ đây, Seiko, Orient “giá rẻ chất lượng” được mở lối để tràn vào thị trường, mà cũng phải khá giả lắm mới mua nổi.
Đến cuối thập niên 70, đồng hồ Thụy Sĩ thất thế bởi “sóng thần thạch anh” từ Seiko, “gu” đồng hồ Nhật dây kim loại “dày cui” bền chắc trỗi dậy. Thời huy hoàng trong những năm 80, 90 với các đỉnh cao như Seiko “nữ hoàng”, Seiko “chặt góc”, Orient SK “mặt lửa”, Orient 3 sao, Orient AAA.
Lại nói, mặc dù các ông không chuộng dây kim loại nhưng các bà thì rất chuộng, không kém gì dây da. Tại sao lại như vậy? Rất đơn giản, dây kim loại trên đồng hồ đeo tay nữ thời xưa đa phần là dạng lắc tay, trang sức, tính ra, trông chúng còn đẹp quý phái hơn cả dây da nữa.
Ngặt nỗi, nữ giới không chuộng đồng hồ đeo tay như nam giới. Không có nhiều đồng hồ được mua, lẽ đương nhiên, nếu tính tổng số thì thời xưa dây da vẫn được yêu thích hơn dây kim loại rất nhiều.
Thế giới đồng hồ đeo tay cổ xưa Việt Nam 1950-1970 chỉ có hai loại chính
Đồng hồ chức năng
(Dây da, dây sắt, dây vải)
SỰ THẬT 2 – ĐỒNG HỒ MẠ VÀNG (LẮC KÊ) LÀ XU HƯỚNG, PHỔ BIẾN NHẤT LÀ 10K VÀ 14K
Không như ngày nay, đồng hồ tông bạc chiếm một nửa khoảnh trời, ngày xưa, chỉ có đồng hồ tông vàng là thế độc tôn. Điều này âu cũng là hợp lý vì người Việt vốn chuộng phong cách thanh lịch, không ưa “khỏe khoắn”, tương tự như “Sự thật 1 – Chủ yếu là đồng hồ dây da, dây sắt rất ít gặp”.
Dù vậy, vẫn còn một nguyên nhân khác dẫn đến cái “gu” này đó chính là giá trị của đồng hồ. Như đã nói trên, đồng hồ đeo tay trong thời này rất đắt đỏ, vì thế, hầu hết mọi người sẽ mua để “làm của”, sau này để lại cho con cháu. Để an tâm, lựa chọn tất yếu phải là bằng vàng đặc hoặc ít nhất là có một lớp vàng dày.
Đến đây, có lẽ ta cần phải tìm hiểu thêm một ít về các loại đồng hồ tông vàng, chúng gồm có vàng đặc, lắc kê (lacquer – bọc vàng, rất dày, trước năm 70), mạ điện (lớp vàng mỏng dưới 20 micron, sau năm 70).
Đồng thời, tuổi vàng được dùng cũng không cố định, từ hạ cám (9k, 10k) đến thượng vàng (14k, 18k, 22k) đều có. Dĩ nhiên, lớp mạ càng dày (từ 20 micron trở lên), tuổi vàng càng cao thì giá càng đắt.
Thật éo le là dân mình lại chuộng đồng hồ Thụy Sĩ đắt tiền, danh vọng cao hơn là đồng hồ Nhật Bản. Vì thế không lạ khi những mẫu tuổi vàng 10k và 14k (lắc kê hoặc mạ, ít có đồng hồ bằng vàng đặc) đã chiếm phần lớn trong thế giới đồng hồ đeo tay cổ xưa nước ta.
Điểm qua một vòng những ông lớn tại Việt Nam từ 1950-1970, Omega, Longines, Wyler, Telda, Bulova, Movado, Benrus, Eterna, Titoni, Caravelle, Gruen, Hamilton, Elgin, Waltham, Wittnauer, … Chẳng có ông nào mà đồng hồ tông vàng các loại chiếm ít hơn 80% sản phẩm cả.
4 thương hiệu nổi tiếng nhất 1950-1970
Omega Seamaster 30 1962 (Ref 135.003-62-SC Cal-286), 37mm, lắc kê vàng dày 40 micron
Có thể nói, suốt thập niên 50-70, đồng hồ đeo tay tông vàng, chính xác là “tông vàng kim” chứ không phải “tông vàng hồng” hay “vàng trắng” luôn là tiêu chuẩn cho một thiết kế Thụy Sĩ sang trọng, tao nhã ở Việt Nam, thậm chí là toàn thế giới.
Lại nói, đồng hồ tông bạc vẫn có chỗ đứng riêng, là lựa chọn rẻ hơn khi ông ta cha muốn sở hữu hàng hiệu, máy tốt (điển hình như Wyler, sản phẩm tông vàng và tông bạc tương đối đồng đều).
Dù vậy, vẫn câu nói cũ, chúng thường rẻ tiền hơn, là thiết kế cho quân đội, thể thao, chịu nước tốt, hoặc ít nhất là đại diện cho phong cách “ít thư sinh” hơn lúc bấy giờ.
SỰ THẬT 3 – ĐỒNG HỒ NHẬT LÀ ĐỒ “RẺ TIỀN”, CHỈ THỢ VÀ LÍNH DÙNG VÌ NÓ BỀN
Dù rằng bây giờ đồng hồ Nhật đã có địa vị rất cao trong tâm trí người Việt nhưng vẫn có một sự thật không thể chối cãi rằng, trước năm 70, đồng hồ của họ là “hạ cấp”.
Tầng lớp trung lưu (trí thức, tiểu tư sản) Việt Nam trở lên không ai đeo đồng hồ của họ cả, đừng nói gì đến tầng lớp thượng lưu. Thậm chí, không quá đáng khi nói rằng đồng hồ Nhật rất rẻ nhưng người lao động phổ thông cũng chẳng hề thích chúng.
Nên biết rằng, không chỉ có “của rẻ là của ôi”, suy nghĩ đồng hồ Thụy Sĩ là nhất đã “thâm căn cố đế” trong lòng người Việt vốn nổi tiếng về độ chịu chơi từ lâu.
Những thứ rẻ hơn thì người ta sẽ nghĩ rằng nó kém tốt hơn, cộng thêm “tầng lớp” sử dụng thường là dân lao động, binh lính, đồng hồ Nhật bị khinh thường vào thời này là điều tất yếu.
Một chiếc Seiko Sportsmatic Sea horse Cal.7625D với dây kim loại nguyên bản (sản xuất trong giai đoạn 1960-1969) chính là điển hình của một chiếc đồng hồ Nhật phổ biến tại Việt Nam thập niên 60-70: thô, dày, tông bạc, dây kim loại, giá phải chăng
Quan điểm này chỉ có thể giải quyết bằng thời gian, chính bởi thế, sớm xuất hiện từ thập niên 60 nhưng đến thập niên 70 thì người Việt chỉ công nhận rằng nó bền. Rồi lại mất thêm 10 năm nữa, khi kinh tế khó khăn, đồng hồ Nhật mới có chỗ đứng, mới được xem là sang.
Quay lại với nguyên nhân dẫn đến đồng hồ Nhật thịnh hành, sau nhiều năm hoạt động, nó vẫn bền, rất bền, cực kỳ bền trong môi trường nhiệt đới ẩm khắc nghiệt như Việt Nam. Và lính Mỹ thì đang cần một thứ như vậy.
Thuở ban đầu, lãnh thổ Việt Nam vốn bị Mỹ và Pháp đóng quân dài hạn, vì thế, những thương hiệu nào được chuộng ở hai nước này cũng sẽ được đưa vào bán ở Việt Nam. Đồng hồ Nhật từng tìm cách xâm nhập qua nhiều con đường nhưng không thành công, vì sự bảo hộ vững chắc dành cho thương nhân, hàng hóa từ Mỹ, Pháp nói chung.
Ngay cả khi quân phiệt Nhật chiếm đóng Việt Nam năm 1940-1945, đồng hồ của họ cũng chẳng là cái đinh gì với đồng hồ Thụy Sĩ. Tất nhiên, đó là chưa nói đến giai đoạn này quân Nhật và Pháp đã trực tiếp gây ra nạn đi khủng khiếp năm Ất Dậu, 1944-1945 ở miền Bắc.
Đến cuối thập niên 50, những cuộc chiến tại đây dần trở nên khốc liệt, đồng hồ quân đội Mỹ do chính phủ cấp không thể đáp ứng được yêu cầu về độ bền khi tham chiến do môi trường quá khắt nghiệt. Ngặt nỗi, lương lính thì khó lòng sắm được một chiếc đồng hồ Thụy Sĩ đủ tốt cho chiến trường.
Do đó, lính Mỹ cấp thấp muốn có đồng hồ để dùng buộc phải mua hàng Nhật giá rẻ tại các trạm đóng quân. Ban đầu, họ chỉ quan niệm rằng những sản phẩm do châu Á làm ra thì sẽ phù hợp với môi trường châu Á, hay đơn giản là cần mua gì đó làm kỷ niệm khi giải ngũ, đồng hồ Nhật có giá rẻ nên họ mua với tâm lý rất thoải mái.
Seiko 6105, một chiếc đồng hồ quân đội Mỹ sử dụng rất phổ biến tại miền Nam Việt Nam thập niên 70
Dần đà, chính những người lính này nhận ra được phẩm chất tuyệt vời của đồng hồ Nhật: bằng thép không gỉ, dày, gia cố chịu nước tương thích môi trường, máy khỏe, mà giá thì lại quá rẻ. Đó là chưa kể đến tính năng, hàng loạt mẫu chịu nước cho thợ lặn, giờ thế giới mà giá chỉ bằng ⅓ đồng hồ Thụy Sĩ tương đương.
Chỉ vài năm sau đó, đồng hồ Nhật ngập tràn trong quân đội Mỹ đang đóng quân tại Việt Nam. Chẳng mấy chốc đến tai người dân lao động phổ thông, những người đang phiền lòng về vấn đề làm sao để mua được đồng hồ và có chiếc đồng hồ nào đủ sức chịu đựng va đập, mồ hôi, nước, bụi đất.
Một chiếc Orient “pháo binh” thập niên 70 (biệt danh của các mẫu King Diver, Diver 3 sao, Crystal, … có chức năng “bezel lặn”), siêu to, dày, béo, khỏe
Cứ như thế, do nhu cầu, đối tượng sử dụng đồng hồ Nhật cổ xưa chủ yếu tại Việt Nam đó chính là lính Mỹ, lính Việt Nam Cộng hòa, thợ xây, thợ máy… ở miền Nam.
Nổi tiếng trong giai đoạn 1960-1970 chính là: Orient pháo binh (King Diver, 3 sao) Orient World Diver, Seiko 6105, Seiko 6119, Seiko 6619, … con nào con nấy “dày to béo khỏe” (đường kính hơn 43mm, dày hơn 12mm).
Tuy nhiên, khoảng cuối thập niên 60 đến đầu thập niên 70, trong dân thường chỉ phổ biến dùng Seiko “hải cẩu”. Đây là sản phẩm được sản xuất chính cho giới viên chức văn phòng, giá không đắt đỏ.
Chúng gồm nhiều dòng khác nhau, có cả thiết kế thể thao nhưng các thiết kế thanh lịch vẫn chiếm số đông. Các “hải cẩu” tiêu biểu như Weekdater, DX, Selfdater, Seikomatic, Seikomatic-R, … Đặc trưng chung là có hình con hải cẩu ở nắp đáy, biểu thị khả năng chịu nước hằng ngày (2-3 ATM ngày nay).
Một chiếc Seiko Seikomatic Sea Lion M44 “hải cẩu” mạ vàng khoảng năm 1970
Sau năm 75, dòng Seiko hải cẩu càng được yêu mến rộng hơn do giá cả hợp lý, mẫu mã đẹp. Đến năm 1980-1990, dù là mẫu mã cũ nhưng sự thịnh hành của chúng đã lấn lướt hàng Thụy Sĩ.
Riêng miền Bắc, trong cả trong nhân dân và quân đội, độ phủ sóng của đồng hồ Nhật thập niên 60-70 vẫn chưa cao, thay vào đó là đồng hồ Liên Xô.
Cũng như đồng hồ Nhật, đồng hồ Liên Xô du nhập vào nước ta đều là loại “siêu to khổng lồ”, bền chắc như cái cối, tuy nhiên, đó lại là câu chuyện khác, xin phép bỏ ngỏ trong bài này.
Một số đồng hồ Vostok Komandirskie năm 1970, phổ biến ở miền Bắc, chúng to như cái cối và xấu theo quan niệm thời xưa
SỰ THẬT 4 – OMEGA LÀ THƯƠNG HIỆU ĐƯỢC THÍCH NHẤT, RÒNG RÃ SUỐT 50 NĂM
Thật lòng mà nói, ngày xưa rất ít ai sở hữu được đồng hồ Omega nhưng vẫn không ngăn được sự yêu thích của người Việt đối với họ. Từ thời Pháp thuộc cho đến hết thời Cộng hòa, bắt đầu từ thập niên 40 kéo dài đến tận thập niên 90, vẫn luôn là Omega – “cái móng ngựa”.
Với giá dao động từ 3-20 cây vàng, đồng hồ đeo tay cổ xưa của thương hiệu này chủ yếu chỉ có chính khách quyền lực, quan lại, quyền quý, sĩ quan cấp tướng tá, giới tư sản mới mua nổi. Bản thân Omega còn đi đầu trong rất nhiều công nghệ, đẳng cấp tầm thế giới, thế nên chúng thực sự là niềm mơ ước của tất cả mọi người.
Một chiếc Omega “Bát Quái (Constellation Pie Pan) càng gãy” vàng đúc 18k, sản xuất khoảng thập niên 60, đỉnh cao nhất của đồng hồ sang trọng ở Việt Nam thời xưa
Đến đây hẳn nhiều người sẽ thắc mắc Rolex và Patek Philippe ở đâu trong thế giới đồng hồ đeo tay cổ xưa tại Việt Nam. Câu trả lời đó là họ vẫn rất nổi tiếng nhưng so ra thì kém Omega, dĩ nhiên, về đẳng cấp thì Patek vẫn hơn, còn Rolex thì không phù hợp thị hiếu bằng (do đa phần là dây kim loại, to và nặng, giá trên trời).
Nhìn chung, các mẫu Omega cổ phổ biến ở nước ta phần lớn và dress watch, rất thanh lịch, trước năm 60, máy lên dây chiếm đa số (do máy tự động mới được hoàn thiện trong những năm 40), sau năm 60, máy tự động lại phổ biến hơn.
Seamaster chính là dòng Omega phổ biến nhất, kế đến là De Ville, trong khi đó, dòng Bát Quái (Constellation) lại được khao khát nhất. Người Việt tay nhỏ nên thích kiểu dáng mỏng, vỏ tròn vành mảnh, kính mo (kính vòm), mạ vàng, cọc nổi, mặt tia (chải xước tạo hiệu ứng tỏa sáng) hoặc mặt lụa (tạo xước tạo hình vân lụa), dây da.
Về tính năng thì đại đa số Omega có mặt tại Việt Nam là: ba kim, ba kim một lịch, hai kim rưỡi. Các sản phẩm Omega có tính năng lặn. thể thao,… thì không được chuộng.
Tất nhiên, do vấn đề giá cả, người sở hữu được Omega không hề nhiều, suy cho cùng, đồng hồ của thương hiệu này chỉ nổi tiếng nhất, được thích nhất chứ không phải phổ biến nhất.
SỰ THẬT 5 – RẤT MỎNG VÀ RẤT NHỎ SO VỚI ĐỒNG HỒ (CƠ) HIỆN NAY
Ngay tại năm 2019, kích thước trung bình cho đồng hồ nam là 40mm, đồng hồ nữ 30mm, những con số cực kỳ lớn nếu đem so sánh với năm 1990 chứ đừng nói chi là năm 1970 trở về trước.
Chính xác thì đồng hồ đeo tay cổ xưa đều có kích thước rất bé đối với bây giờ và kích thước của nó gần như không thay đổi suốt từ thập niên 50-70. Đối với nam, đường kính mặt số thường không lớn hơn 36mm, đối với nữ, đường kính mặt số thường không lớn hơn 26mm.
Không chỉ vậy, thời đại này cũng là lúc mà đồng hồ cơ siêu mỏng đạt đến đỉnh cao nhất. Hầu như các sản phẩm của mọi thương hiệu Thụy Sĩ phổ thông hay sang trọng sẽ không dày hơn 11mm nếu là máy tự động, nếu là máy cơ, nó thường chỉ dày đâu đó tầm 9mm.
Ví dụ như dòng Wyler Incaflex Dynawind, (Incaflex là Bánh Lắc (bánh xe cân bằng) chịu sốc, phát minh của Paul Wyler năm 1927, đây cũng là đặc trưng của thương hiệu này).
Wyler rất được ưa chuộng trong tầng lớp tiểu tư sản từ Nam ra Bắc, chỉ là hàng bình dân nhưng độ dày cũng tầm 10-11mm. Nếu là máy lên dây thì càng mỏng hơn.
Wyler Incaflex Dynawind 3880M-1162 thập niên 60, máy automatic, size xấp xỉ: 35 x 10.9mm
Ngày nay, đồng hồ cơ mỏng cỡ dưới 10mm rất ít và đắt tiền, thậm chí là không thể thấy trên thương hiệu tầm trung, bình dân của Thụy Sĩ, Nhật Bản. Trong khi đó, cũng những thương hiệu này, ngày xưa, họ có hàng tá thiết kế siêu mỏng, có thể thấy rằng đây không phải vấn đề về công nghệ.
Đơn cử như Seiko, họ vẫn có dòng sản phẩm máy tự động siêu mỏng đỉnh cao đó là các Lord Matic (LM), giới thiệu năm 1968. Với độ dày phầm lớn chỉ khoảng 9.4-10.5mm, đây thực sự là một trong số các dress watch nổi tiếng của hãng này. (Đáng tiếc là chỉ bán trong nội địa Nhật).
Orient cũng chẳng kém cạnh với các Orient Fineness Ultra Matic, giới thiệu năm 1967, độ mỏng của Cal.3990 bên trong là 3.9mm, như thế, cả đồng hồ dày chỉ tầm 8mm mà thôi.
Bạn nghĩ hãng Nhật như Orient không có đồng hồ mỏng? Không đâu, chỉ là nó không phổ biến bên ngoài Nhật Bản mà thôi (trong ảnh là Orient Fineness Ultra Matic 35J năm 1967, độ dày tổng thể chỉ 8mm)
Đi tìm nguyên nhân, có rất nhiều lý do để giải thích nhưng quan trọng nhất vẫn luôn là: độ bền, thị hiếu. Mỏng thì không bền, song song, người ta ngày càng thích mặt to, nếu đồng hồ mặt to mà dáng quá mỏng thì bị mất cân đối. Lại nói, đối thủ trong giai đoạn 1970-1990 của đồng hồ cơ siêu mỏng chính là đồng hồ quartz.
Độ dày của máy quartz không ngừng giảm đi, đáng chú ý nhất là công nghệ Eco-Drive One của Citizen cho phép độ mỏng đạt 1.00mm đi kèm mặt 2.98mm (năm 2019).
Ngược lại, độ mỏng của máy cơ đã đạt đến đỉnh điểm vào cuối thập niên 80 (máy Lassale 1200 dày 1.2 mm, 1976), vào thập niên 70, Piaget 12P chỉ dày 2,3 mm là ví dụ đáng chú ý nhất.
Sau cuộc khủng hoảng thạch anh (thập niên 90 trở về sau), hầu hết các thương hiệu lâu đời đã từ bỏ đồng hồ cơ mỏng và nhỏ của mình. Còn bám trụ thường là hãng lớn chuyên về cổ điển như Longines, Rado, Hamilton và mới đây là Frederique Constant, hay hàng xa xỉ như Chopard, Jaeger-Lecoultre, Patek Philippe, Piaget, Vacheron Constantin, Audemar Piguet.
Quay lại với đồng hồ đeo tay cổ xưa ở Việt Nam, bạn sẽ rất khó để tìm ra một chiếc đồng hồ (hàng dân dụng) dày hơn 11mm. Nếu có, nó sẽ là đồng hồ nhiều chức năng (chronograph, Moon Phase, nhiều lịch…) rất đắt tiền, đồng hồ thợ lặn, đồng hồ quân đội hoặc dành cho chuyên nghiệp nào đó, tất cả đều không phải là hàng đại chúng.
Số đo của một chiếc Seiko Lord Matic 5606-7070, máy automatic, sản xuất năm 1968
Tóm lại, kích thước tiêu chuẩn cho từng loại đồng hồ sẽ xấp xỉ con số sau:
Bảng số đo kích thước trung bình đồng hồ nam từ 1950 – 1970
Đồng hồ lên dây
Độ dày
8-9.5mm
Đường kính
32-36mm
Đồng hồ tự động
Độ dày
8-11mm
Đường kính
32-36mm
Bảng số đo kích thước trung bình đồng hồ nữ từ 1950 – 1970
Đồng hồ lên dây
Độ dày
7-9mm
Đường kính
20-26mm
Đồng hồ tự động
Độ dày
8-10mm
Đường kính
20-26mm
Kiến thức về đồng hồ siêu mỏng
ĐỌC THÊM: CÓ ĐỒNG HỒ THỤY SĨ “TRÂU”, CÓ ĐỒNG HỒ NHẬT “THANH”?
Thời xưa, đồng hồ Thụy Sĩ và đồng hồ Nhật là biểu trưng của 2 trường phái: thẩm mỹ và độ bền. Nếu tính về tổng thể, đồng hồ Thụy Sĩ thường được thiết kế sao cho nó bền (cho sử dụng đúng mục đích), vừa chính xác và vừa có vẻ bề ngoài đẹp nhất. Còn đồng hồ Nhật sẽ được tối ưu cho để có độ bền cao nhất cho tầm giá.
Có nghĩa là, nếu cùng giá tiền, đồng hồ Nhật sẽ bền hơn, đồng hồ Thụy Sĩ sẽ đẹp hơn. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là đồng hồ Thụy Sĩ kém bền hay đồng hồ Nhật không đẹp. Chúng chỉ không phổ biến ở Việt Nam mà thôi, chứ trên thế giới thì có đầy
Ví dụ về đồng hồ Thụy Sĩ loại “trâu”, nào là Omega Ploprof, Omega Speedmaster, Rolex Submariner, Doxa Sub, Omega Seamaster 300, Zodiac Aerospace GMT, Nivada Grenchen Depthomatic…
Zodiac Aerospace GMT (thập niên 60 bên phải và bản 2019 bên trái), đồng hồ Thụy Sĩ yêu thích của lính Mỹ khi đóng quân tại Việt Nam
Nên nhớ, thập niên 50-70 chính là thời kỳ hoàng kim của đồng hồ lặn, đồng hồ chronograph, không lý nào mà cường quốc “nhứt” hạng về đồng hồ như Thụy Sĩ lại về nhì, nói chi là không có mẫu “trâu bò” nào cả.
Và đồng hồ Nhật loại “thanh” dĩ nhiên cũng sẽ có. Seiko Goldfeather, Lord Marvel, Seiko Crown, Grand Seiko, King Seiko, Seiko Fairway, Seiko Cronos, Orient Auto Calendar, Orient Star, Royal Orient, Grand Prix Orient, …
King Seiko, biểu tượng sang trọng và chất lượng cao nhất của Seiko trong thập niên 60-70 (trong ảnh là King Seiko HI-BEAT 5625-711 – 28800 vph, sản xuất năm 1974)
Đến đây, hẳn nhiều người vẫn chưa đồng ý lắm với các câu trả lời ở trên về độ bền của đồng hồ Nhật và Thụy Sĩ. Vậy thì đây chính là chìa khóa bạn đang cần: vật liệu chế tạo vỏ.
Thập niên 70 trở về trước, trong khi thế giới, bao gồm Thụy Sĩ vẫn còn mải mê dùng đồng thau (một phần là vì khả năng không bị nhiễm từ, rất hợp lý cho bộ máy cơ) để chế tạo vỏ đồng hồ thì người Nhật sớm đã dùng thép không gỉ để chế tạo đồng hồ cho mình từ thậ